Thursday, May 18, 2017

CHI HỌ ĐINH TRỌNG ĐỆ NHỊ GIA PHẢ



CHI HỌ ĐINH TRỌNG
ĐỆ NHỊ GIA PHẢ
==========================
LỜI MỞ ĐẦU
Chi họ Đinh Trọng chúng tôi cũng như các chi họ Đinh khác đều là hậu duệ họ ĐINH đã phát triển theo chiều dài lịch sử nước Việt Nam. Tính từ đời Đinh Tiên Hoàng Đế lập nên nước Đại Cồ Việt vào năm 968 và đóng đô tại quê hương Hoa Lư, Ninh Bình đến nay dòng họ Đinh đã có hơn một ngàn năm phát triển.
Ngài Sơ Tổ chúng tôi tức là Cụ Cao Đinh Trọng Toạ từ quê gốc là Huyện Giao Thuỷ, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Định vào Thuận An đời Nhà Nguyễn định cư tại Sư Lỗ Đông, Tổng Lương Điền, Huyện Phú Lộc, Tỉnh Thừa Thiên vào thế kỷ thứ Mười Chín.
Do điều kiện lịch sử chúng tôi không thể nào truy ra từ đời Ngài Thuỷ Tổ Đinh Trọng ngoài Nam Định cho đến Sơ Tổ Đinh Trọng Tọa là bao nhiêu đời? Nhưng may thay Ông Nội cùng Thân Phụ chúng tôi đặt thứ tự tính từ đời Sơ Tổ là ĐỜI THỨ NHẤT.
Luận theo Gia Phả Thứ Nhất tại Truồi như vậy đến đời chúng tôi là năm (5) đời.
NHU CẦU THÀNH LẬP ĐỆ NHỊ GIA PHẢ CHO TỘC PHÁI
Chúng tôi mạo muội cho rằng rằng Quê Truồi nay đất hẹp người đông phần đông con cháu Đinh Trọng đã di cư vào nam để tìm con đường làm ăn sinh sống.
Hiện nay con cháu của Chi Họ Đinh Trọng trong nam đa phần đều an cư lạc nghiệp, sinh ra con cháu mỗi lúc mỗi đông. Tuy Quê Truồi luôn luôn là GỐC để con cháu hướng về; nhưng vạn dặm sơn khê sao gặp mặt đoàn viên, đại hội hiếm khi thực hiện? Nay con cháu trong nam càng sinh ra nhiều thế hệ thì làm sao để dễ bề gặp gỡ, hàn huyên hỏi chuyện, tìm tòi nguồn gốc, biết mặt tôn ti?
Thêm thay thời nay THIÊN CƠ khó ai lường? Cảnh bể dâu xao xác suốt dòng Việt Sử đủ minh chứng rành rành nên chúng tôi phải ưu tư phòng bị.
Đã cho là THỜI THẾ VÔ THƯỜNG, nên chúng tôi xét phải có GIA PHẢ THỨ HAI hầu phòng bị khi tai ương, biến cố đổi dời. Nếu như thời thế bất an, thì con cháu Đinh Trọng mới có bản phó mà sưu lục tông tích.
Chúng tôi mạo muội nghĩ rằng:
So với Sơ Tổ Đinh Trọng Toạ, Ngài đã thiên cư vào Tỉnh Thừa Thiên lập nên ĐỆ NHẤT ĐẠI thì đó là cuộc THIÊN CƯ THỨ NHẤT. Từ đó lập nên ĐỆ NHẤT GIA PHẢ tại quê Truồi.
Sau khi chúng tôi định cư tại miền nam, dò về quá khứ chúng tôi lại nhận ra rằng: hai cuộc di cư lịch sử 1972 & 1975 đã kết nên chuỗi thời gian đáng nhớ do lúc này con cháu Đinh Trọng vào nam rất đông. Điều đáng bàn là hiện nay con cháu họ Đinh tại miền nam đã xem nơi này là quê hương thứ hai rồi.
Nếu chúng tôi nghĩ vậy thì nhu cầu Đệ NHỊ GIA PHẢ cần phải có để làm gốc cho con cháu đời sau trong nam dễ bề bổ túc hay sưu lục.
Đệ Nhị Gia Phả là cuốn tiếp nối Đệ Nhất Gia Phả tại Truồi nhưng có ghi chép thêm tên tuổi con cháu từ đời thứ Năm trở về sau.
Con cháu Đinh Trọng cho đến ba đời đều có nhiệm vụ gửi tên tuổi vào chung cuốn gia phả này.
Riêng con ngoại hôn phải ghi tên mẹ và làng quán ở đâu?
Chúng tôi thuận giao cho Quản Thư Đinh Trọng Thịnh đời thứ NĂM có nhiệm vụ soạn thảo ra Đệ Nhị Gia Phả.
Trong Gia Phả Đệ Nhị này Đinh Trọng Thịnh có bổn phận ghi chép đến hết đời thứ Sáu (6) . Bắt đầu đời thứ Bảy (7) thì có nhiệm vụ ghi nhánh của dòng trưởng của thân phụ chúng tôi là Đinh Trọng Cương .và tiếp tục đời kế.
Khi Gia Phả soạn xong, anh em đồng thuận sẽ vào khấn vái đặt lên bàn thờ của thân phụ chúng tôi tại Thôn Cam Bình, xã Tân Phước, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận và giao cho Quản Từ Đinh Trọng Trị bảo quản.
Chúng tôi thuận giao cho cho Đinh Trọng Ái đời thứ năm chăm lo Chánh Từ Đường Đinh Trọng tại Thôn Xuân Lai, Xã Lộc An, Huyện Phú Lộc, Tỉnh Thừa Thiên cùng gìn giữ Đệ Nhất Gia Phả.
Trong Đệ Nhất Gia Phả này, Đinh Trọng Ái có nhiệm vụ ghi chép đến hết đời thứ Sáu (6). Bắt đầu đời thứ Bảy (7) thì có nhiệm vụ ghi nhánh của thúc phụ chúng tôi là Đinh Trọng Tương và tiếp tục đời kế.
Riêng con ngoại hôn phải ghi tên mẹ và làng quán ở đâu?
LỜI KẾT
Sông có nguồn, cây có gốc. Cây xanh phải có cái gốc vững vàng thì cành ngọn mới lan xa toả rộng. Tương tự như thế, một dòng họ nếu có đông đúc cháu con nhất tề bảo vệ cùng tự hào nguồn gốc thì đời sau tất phải hiển vinh.
Chi Họ Đinh Trọng chúng tôi cũng vậy, lấy cội nguồn lịch sử làm gốc để phát triển hậu thế.
Tự hào đại tộc họ Đinh cùng chi họ Đinh Trọng trên nền tảng thân ái đùm bọc họ hàng, cùng nhau xây dựng gia quy phát huy gia tộc.
Tâm thành hướng lên oai linh Đinh Tộc Hoa Lư & Nam Định cùng hương linh Tổ Tiên tại Xuân Lai Thôn, Lộc An Xã, Thừa Thiên Tỉnh gia độ cho Đinh Tộc đoàn kết mọi bề, tương kính lẫn nhau, cùng phò trì cho con cháu mở mang nòi giống cùng tương lai xán lạn, công thành danh toại và ấm no hạnh phúc.
Phan Thiết ngày...tháng... năm (nhằm ngày...... Đinh Dậu)
Quản Thư Đinh Trọng Thịnh (đời thứ 5)



Tuesday, May 16, 2017

LÒng Tự Hào Về Dòng Tộc trong Tên Họ của người Việt Nam


year 2000
San Jose CA

LÒng Tự Hào Về Dòng Tộc trong Tên Họ của người Việt Nam
Tên người là nét văn hoá chung của nhân loại. Dân tộc nào cũng có cách đặt tên và gọi tên.
Duy người Việt hay có cách đặt tên thường gọi lúc còn nhỏ hay là tục danh nó khác với tên chữ hay tên trong giấy tờ. Tuy nhiên ý niệm thờ phụng trong văn hoá Việt khiến người ta tôn trọng cái tên dù hay dù dở do cha mẹ đặt cho ta.
Tục danh của người Việt xưa nó mang văn hoá mê tín hay kiêng kỵ trong đó nên tên trong dân dã ít khi hay bằng tên chữ hay tên trong giấy tờ, thư tịch.
Người Việt trân trọng tên của mình do ý niệm tôn trọng và thương quý cha mẹ mình mà ra.
Về HỌ đối với người Việt Nam lại cao hơn nhiều bậc do nó mang nặng lịch sử nhiều đời cho một họ tộc.
Về lâu dài sự phát triển một HỌ thường phân nhánh thành nhiều CHI HỌ khác nhau bằng cách thay đổi thêm bằng chữ LÓT nhưng vẫn mang HỌ nguyên thuỷ của mình ở đầu.
Tuy vậy nó vẫn cùng một gốc mà ra.
Ý niệm tự hào về dòng tộc có hay không bắt nguồn từ sự trân quý về HỌ Tộc của mình.

Tuy nhiên trong xã hội hiện nay có khuynh hướng muốn thay đổi tên lót hay họ một cách tuỳ hứng không theo một gia quy hay gia ước nào cả? Cách hành xử này có thể bắt nguồn từ những lý do sau:
-Không hiểu thấu đáo sự quan trọng của HỌ và tên đệm nó quan trọng ra sao
-tự ti về dòng họ muốn có sự khác biệt để tách biệt và vươn lên
-thiếu lòng tự trọng hay phát xuất do thiếu thốn sự tự hào về dòng họ của mình
Xã hội Việt Nam hiện tại sau một thời kỳ vui hưởng hoà bình lâu dài hiện nay có rất nhiều phong trào về nguồn thành lập đại hội dòng tộc. Rất nhiều dòng họ đã biết tìm ra tông tích lịch sử của nhau và đã hợp tác lập ra nhiều BAN LIÊN LẠC cho dòng họ mình.
Xét cho cùng hành động trên là do TỰ HÀO DÒNG HỌ mà ra.
Nếu suy nghĩ ngược lại những ai muốn thay đổi không muốn mang Họ của mình do tổ tiên truyền thừa đó là hậu quả của lòng tự ti và THIẾU VẮNG SỰ TƯ HÀO VỀ DÒNG HỌ mà ra.
DHL 16/5/2017

Friday, May 12, 2017

ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ



ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ

Trước khi về Việt Nam hai vợ chồng trù liệu sau khi tham dự đám cưới cháu Huỳnh Minh Huy con o Tâm xong sẽ ra quê miền trung thăm.

Người ta nói 'nói trước bước không rời' thật đúng. Một tháng trời ho và cúm không ra khỏi căn phòng nhà trọ bên nhà Ngoại. Ra ngoài là ho rũ rượi, khiến tôi lo lắng trong lòng do e ngại sẽ bị giữ lại phi trường khi về lại Mỹ.

Thế là tôi chỉ lay hoay trong phòng. Hàng ngày chỉ biết qua nhà thăm mẹ.




Con đường xuyên qua thôn cũ. Những bụi điều xơ xác đầy đất bụi, xóm vắng đìu hiu. Khung cảnh vẫn nghèo nàn thiếu thốn dưới mắt tôi mặc dù qua hơn 20 năm có nhiều thay đổi.
Xóm Cam Bình nơi Nội Ngoại tôi sinh sống. BA Mẹ hai bên đều đã già. Mạch sống vẫn khó khăn quyện trong khung cảnh cái chợ nhỏ bé càng ngày càng co rút lại khi xung quanh bao khu nghỉ dưỡng (resorts) từ đâu về mua đất 'đóng đô' làm ăn rộn ràng nhưng cách biệt.

Cam Bình dân thôn tôi vẫn vậy, ngoại trừ con cái đi xa làm ăn hơi khá; những người còn lại nay trầm lắng, an phận trong cái xô bồ của một đất nước đang đổi thay.

******
Tôi nhớ lại trước ngày về lại VN tức là cuối năm 2016:

Hai vợ chồng suy tính nào là thăm Đông Hà vô lại chùa Ái Tử xong thăm hai bên làng vợ làng chồng. 
Chuyến du lịch trù tính 'trong mơ' này sẽ có Thành Nội Huế. Hai vợ chồng cũng trù tốn tiền thuê "mặc áo HOÀNG BÀO' đóng vai 'vua chồng vua vợ' chơi?

Rồi nào là về làng Nội Truồi thắp hương bái tạ tổ tiên đã phò độ cho con cháu công thành danh toại...

Cái ý là vậy. Chuyến đi có trù liệu tiền bạc tốn kém. Ai dè cuối cùng nuôi bệnh và sự du lịch chỉ 'lay hoay' trong cái rốn Cam Bình?

Còn an ủi mấy ngày gần về, mấy bà dì có đưa đi thăm mấy khu du lịch sát biển Cam Bình và lên Bình Châu.

Xe đi ngang Tân Thắng, có dịp vợ chồng nhìn lại Cầu Kiều, xã Tân Thắng, ngó vô hướng mấy đội kinh tế mới trong rừng.
Còn có dịp nhìn lại khu rừng Bình Châu, một thời cong lưng đạp chiếc xe thồ, con đường hoang vắng. Những khu khai phá của dân Nghệ Tĩnh Thanh hoá ngoài kia vô mấy mươi năm trứoc nay đã thành những xóm nhà xây ven theo rừng Bình Châu.

Suối nước nóng thành khu Du Lịch gọi là Hồ Nước Nóng Bình Châu, những ngôi nhà nghỉ trong khu này thì hai vợ chồng hẹn chuyến sau.

Nói thì nói vậy, vợ chồng tôi chẳng tiếc thời gian một tháng này, nhờ đau yếu tôi có dịp gần cha mẹ hai bên những ngày gần đất xa trời.

Tôi biết rằng những hình ảnh  ghi lại hôm nay tuy nay mai  ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ vẫn là đường cũ lối xưa nhưng hình bóng mẹ già sẽ như 'chuối ba hương' chắc chắn rằng không là mãi mãi:

-đói lòng ăn trái khổ qua 
nuốt vô thì đắng nhỏ ra họ cười...

 Hôm nay mẹ tôi còn ngâm nga hai câu ca dao xưa thật là xưa.  Rồi hình ảnh và âm vang 'đói lòng ăn trái khổ qua..."cũng trở về  quá khứ. 


Mẹ, con, ai trong chúng ta cũng sẽ lần lượt đi về quá khứNên chúng ta hãy cùng nhau giữ gìn kỷ niệm của ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ- hình ảnh một thời.

DHL 12/5/2017

Monday, May 8, 2017

BA TOI VA QUE HUONG





Lời tựa: thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà Ba đã ra đi hơn mười một thu rồi.  Hôm nay nơi xứ người ngàn trùng xa cách con chợt nhớ đến Ba, nhớ đến những ngày đói khổ nơi quê hương yêu dấu.  Ba hỡi, khi nhớ đến Ba con không cầm được nước mằt.  Giờ đây chén cơm đã đầy, áo măc đã thừa thì Ba đã khuất núi từ thuở nào. Nhớ ngày xưa Ba con mình khoai sắn có nhau thế mà giờ đây con chỉ có thể trả hiếu cho Ba bằng những dòng hồi ký này thôi, bằng  những dòng chữ  do công ơn Ba Mẹ cho con ăn học mà thành. Con thành tâm cố gắng lục lọi lại trong tiềm thức những ký ức và hoài niệm mong một mục đích vẽ lại cuộc đời Ba cho con cho cháu thấy và âu cũng là gặp lại Ba vậy.


San Jose January 11th 2006
thứ nam Đinh Trọng Phúc
                                                                                                                 
                                                                            ********





Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.
 .
  B ắt nguồn giữa hai đỉnh núi cao là Bạch Mã (1448 m) và động Truồi (1170m) sông Truồi lượn lờ uốn khúc nhiều đoạn rồi xuyên qua cầu Truồi, êm ả đi qua mấy thôn Xuân Lai, Bàng môn xuôi vể hạ lưu mà đổ vào đầm Cầu Hai.   Mùa hè khách đi qua cầu Truồi khi ghé mặt ngó về hạ lưu phía tả ngạn sẽ thấy ngay cây phượng vĩ đỏ ối che rợp cả một bến đò: đó là bến đò thôn Xuân lai, ngày ngày đưa khách qua lại bên kia là chợ  Lộc Điền, bến đò đó ngày ngày đưa đón  khách sang sông , bóng cây phượng vĩ tuổI cùng thế kỷ , cây phượng vĩ được gầy lên từ tay NỘI và bóng miếu kia in dấu chân và hương khói của cả đời  Ông.


THƯỞ THIẾU THỜI

NHÂM TUẤT 1922

Ru con  con ngủ cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh…


Tiếng ru con của Mệ đã đưa Ba êm ả chào đời tại thôn Xuân Lai, cách Nam Phổ chẳng bao xa, lại càng gần bến nước sông Truồi trong xanh lượn lờ theo thời gian bất diệt. Giọng hò của Mệ, người con gái xứ Quãng Nam (Xã Thanh Quýt, Huyện Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam) đã theo chàng trai xứ Huế ra làm dâu quê Truồi- cũng là quê hương của những chùm dâu ngọt lịm.  Giọng hò đó đã ru ba khôn lớn và yên lành trong giấc ngũ để Mệ còn qua chuyền đò ngang kịp chuyến chợ chiều, tảo tần giúp chồng nuôi con.



qua cầu ngã nón trông cầu
cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu…

  Huế kinh thành hoa lệ cộng thêm ánh sáng văn minh vật chất của thực dân Pháp làm cho Huế thu hút bao nhiêu người từ quê lên kinh đô mưu cầu sự sống.  Cầu Tràng Tiền, một món quà mà Pháp đã xây làm quà cho vua Khải Định  được dựng lên bằng bao nhiêu mồ hôi nước mắt của dân đinh, cầu càng xây thêm nhịp nào thì người vợ càng đợi tin chồng càng lâu chừng đó, vì đi làm sưu dịch cho Pháp là làm không công cho họ.  Đó là lời ba đã giải thích cho con được hiểu.   Mới mười mấy tuổi Ba đã bôn ba lên Kinh đô Huế kiếm việc làm thuê, nào phụ tiệm may nào phụ thợ lò kem kinh thành hầu kiếm tiền  về cho Nội.  Lòng hiếu của Ba thương Mệ, chắt chiu từng đồng bạc lận trong áo Ba cố đi bộ theo đường xe lửa Ba về đến Truồi cho đỡ tốn tiền tàu để lấy  tiền về cho Mệ. Cái thuở hàn vi ấy khi mà Mệ tảo tần hôm sớm,Ông thì chỉ may đôi ba cái áo xuyến kiểu xưa thì cảnh nhà làm sao  ra khỏi cảnh chật vật được.  Ba rất hiếu học trong làng chỉ có lớp 3 mà Pháp ngữ Ba đã giỏi lẳm rồi.  Thế là Ba bắt đầu phóng tầm mắt xa hơn nữa dấn thân lưu lạc tha phương tìm sự nghiệp; Sài gòn hay phương nam đang lôi cuốn chàng thanh niên trẻ tuổi và người đó là BA.




TRƯỞNG THÀNH

  

      VÀO NAM THẬP NIÊN 1940




18 tuồi Ba bắt đầu ra đi tìm sự nghiệp

Theo lời Ba thì mẹ của Ông NỘI là người hoàng phái nên Sài gòn có người bà con bên Mệ của Ba là Nhà in Tôn thất Lễ (cậu của Ông Nội) nên Ba đã dấn bước vào Sài gòn lúc tròn 18 tuổi.  Bước chân giang hồ từ đó nhưng cũng giúp Ba mở mang trí óc được nhiều lắm, nhất là tiếng Pháp và tiếng Nhật.  Đó là cái thuở Viêt nam vào thập niên 1940, trong Sài gòn lại có bà O con trước của Ông NỘI , O tên là Luyến(?).  thời trước 1972 ngoài Quảng Trị, con còn nhớ trong album còn có tấm hình của o Đinh thị Luyến. Sau này ba kể lại trong Sài Gòn o còn có con cái đi quân đội lên thiếu uý 

Bước chân viễn khách đưa đẫy cho Ba gặp Mạ đích của con lúc đó Mạ đang bán thuốc tây tại Đà Lạt, đó là lời ba kể. Hồi này chuyện tình của Ba và Mạ cũng có phần trở ngại vì Mạ là gốc công giáo. Nhưng sóng gió nào cũng qua, Ba nhờ thông thạo Pháp và Nhật Ngữ nên Ba Mạ về lại miền trung cũng có việc làm.


TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG THẬP NIÊN 1950

Trở lại quê Truồi, lúc này đã có chị Bích và chị Biên. Cố đô Huế với cầu Tràng tiền sáu vài mười hai  nhịp ngang đây khi chiếc xích lô chở gấp chị Bích vào bệnh viện Huế nhưng chị cũng từ giã cõi đời vì bạo bệnh lúc mới lên mười(1952).  Thời gian này Ba có lẽ đã ra làm Quãng trị và gia đình Mạ đã về Mỹ chánh gần quê ngoại của Mạ ở Ưu điềm.  Chị Bích  Nhâm Ngọ 1942) và chị Biên (Mậu Tý 1948) đều được sinh ra ở quê Truồi.

Qua thập niên 1950 Ba ra làm việc QT cũng là lúc sinh anh Nghĩa (1952 Nhâm Thìn) và cái số đào hoa ai xui ai khiến cho a gặp mạ đẻ của con và cuộc tình đó càng thắm thiết tại một vùng thơ mộng –Lăng cô nơi Phúc đã tượng hình, và khi nghe tin con được sinh ra ngoài Quảng trị Ba vừa may mắn thoát chết khi bị phục kích bằng mìn nên đặt tên Phúc cho con.  Đến khi lên mấy tuổi con có dịp về thăm Lăng cô lại và đã ở lại nhà Bác Hai mấy ngày. Thời gian đó tuy còn nhỏ nhưng con không quên được món đặc sản sò huyết ở Lăng cô mà không nơi nào ngon bằng.  Nào ăn sò huyết rồi lại ra ngồi chơi tại bãi cát sát ven bồi ven sóng nước tuy nhiên còn nhỏ nên con đâu dám lội xuống nước?

.
Lăng Cô chân đèo  Hải Vân nơi này hẹn hò của mốI tình lãng mạn giữa Ba và Mạ con và kết quả là có Phúc trên đờI

 Sau khi sinh O Mỹ (Ất Mùi 1955) và O Tâm (Bính Thân 1956)  thì Ba cũng làm lên được trưởng chi công an các quận ở tỉnh Quảng trị.  Con còn nhớ khi còn nhỏ đã theo Ba lên tận quận Cam lộ khi ba làm trưởng chi trên đó rồi cho đến khi sinh o Hiệp, năm Kỷ Hợi 1959.Sau khi sinh O Hiệp có thể thời gian này ba đổi lên BA Lòng cho đến năm 1961. Con có dịp theo ba lên Quận Ba Lòngcon cũng theo Ba lên tận quận Ba lòng. Con còn nhớ hồi đó quận Ba Lòng chưa mất, Mỗi lần lên lại phải chèo đò đi theo giòng ngược lên hướng nguồn sông.  Hai ba giờ sáng đò đã rời thị xã QT ngược lên hướng núi.  Thời đó làm gì có máy để chạy đò, phải chèo hơn suốt một ngày đến năm sáu giờ chiều mới đến thôn Đá nổi gần Rà Vịnh, Ba Lòng.  Làm sao con quên được lúc chỉ là cậu bé non mười tuổi đi đâu cũng lẻo đẻo theo ba? Thung lũng Ba Lòng dân mình hồi đó trồng toàn bắp, mùa bắp đến con đâu quên được những nồi bắp bốc hương thơm ngát và con cũng không quên được cái tình cảm chan hòa phía bên Quận mỗi lần săn được gà và heo rừng cũng đều đem qua chia cho Chi công an của ba. 


Sau khi O Hòa ra đời (Canh Tý 1960) thì đến Tân Sửu 1961 em Đinh trọng Lĩnh  cũng được sinh ra nhưng chỉ năm sáu tháng thì bị cơn động kinh vì quá sốt và qua đời tại bệnh viện QT (rạng  mồng 1 tháng 10 ÂL 1961). Đám của Lĩnh gặp ơn Phật táng tại chùa Ái tử Quảng trị  lúc mệ ngoại con tu ở đó và may mắn thay gặp lúc chư tăng đang mùa kiết hạ nên gặp rất đông đại đức hòa thượng ra tiếp dẫn.  Đám của em Lĩnh lúc Ba đang về làm ở Đông hà. Đám xong thì ông NỘI từ Truồi mới ra kịp và chỉ thắp hương bên bàn thờ của em con tại nhà Ngoại của chúng  con tại 127 đường Lê văn Duyệt thôn Đệ Tứ thị xã Quảng trị mà thôi. Con còn nhớ hình ảnh NộI vừa bước xuống chiếc xích lô vội chạy vội vô bàn thờ khóc ba tiếng và có trách rằng sao lại đặt tên em là Lĩnh sao không biết rằng đó là tên Húy của tổ tiên dòng họ Đinh( tức là ĐINH TIÊN HOÀNG ĐẾ-ĐINH BỘ LĨNH), có lẽ Nội tin rằng vì húy kỵ mà nhà mình bị tổ tiên quở cũng nên.  Hồi đó Ba có giải thích rằng vì Mạ con tên là Mai mà tỉnh QT có ngọn Mai Lĩnh là cao nhất (núi Mai sông Hãn) nên Ba cao  hứng mà đặt tên cho con trai chớ không về Truồi mà tra cứu cho kỹ càng trước khi đặt tên cho con trai mình.


Hai anh em Nghĩa và Phúc (chụp tại ảnh quán Lido Quảng trị khoảng năm 1960)

Hai năm sau Thịnh ra đời (Quý Mão 1963) tai QT và em Bình vào cuối năm 1963 tại Mỹ Chánh. thời gian này Ba tiếp tục làm tại Đông Hà thì em Hương cũng sinh ra tại Đông hà Quảng trị (Giáp thìn 1964). Thế là con lại có thêm em gái (con dì Dỏ) người em gái ra đời tại thôn An Lạc bên giòng Miêu giang Đông hà Quảng trị.

Con lại nhớ hè năm 1964 khi Ba đã vào làm tại chi công an Hải Lang . Lúc đó nhà mạ con cũng vào ở với Ba tại Chi. Con vẫn ở học tại nhà mệ Ngoại ở thôn Đệ tứ QTrị nhân dịp nghỉ  hè vào Hải lăng chơi. Hè đó Dì DỎ sinh xong em Hương tại Đông hà, dì bồng Hương khi đó mới khoảng một hai tháng tuổi vào trả cho Ba tại chi công an Hải lăng. Mạ con vẫn săn sóc Hương, khi đó Thịnh lớn hơn Hương mấy tháng.  Mái sau của Chi Công an Hải lăng nơi nhà mình tạm ở, trên cái đi văng Thịnh và Hương ngày ngày nằm sóng đôi còn mạ con thì lo chăm sóc.  Nhưng chỉ vài ngày sau vì tình mẹ dì Dỏ từ Đông hà vào xin Hương lại và Dì nói lý do vì quá căng sữa.  Chính cái số đào hoa của Ba làm cho Ba có nhiều anh em tuy khác mẹ nhưng vẫn thương nhau vì chỉ cùng chung huyết thống, chỉ tội cho thân phận lạc loài như O Hương sinh ra thiếu vắng tình cảm của Ba cũng như bên Nội thì thật thiệt thòi cho Hương nhiều lắm.  Ba có biết không, sau cái ngày sụp đổ 1975, một ngày con trong đoàn tù binh trên đường lên Cồn tiên Gio linh tăng gia sản xuất trên đường di chuyển khi dừng chân tạm nghỉ bên cầu Đông HÀ gần thôn An Lạc, con đã gặp được o Hương.  Hương khi đó là một em bé lạc loài tay đang nách một mẹt bánh mỳ bán cho khách khi xe dừng.  Có người quen bên đường, O Dung bạn mạ con người cùng thôn đệ tứ đã nhìn ra con và o Dung liền chỉ cho Hương nói rằng anh của con đó. Thế là Hương quên cả sợ liên hệ với tù binh  mà chạy òa đến bên con, tình huyết thống sao mà thiêng liêng quá Ba a.  Mười một  năm rồi Hương mới thấy mặt anh mình thế là trên cái mẹt chỉ mấy ổ bánh mỳ Hương cũng trút hết cho con đang mang thân phận người tù cải tạo.  Cũng chưa hết, em chỉ có mấy đồng cũng nhét hết vào tay con, lên Cồn tiên tối lại nhai ổ bánh mỳ mà con không cầm được nước mắt.  Hương sinh ra, gia đình mình đã là quá thiếu bổn phận thế mà lúc con sa cơ đứa em gái cũng không bao  quên được cái tình máu mũ.




hinh nay do em VO hoai THan con cau Phuong chup gui qua ngay 12/10/2017

           
truoc 1960


Ba khoảng  trước năm 1960



Khi con lên học lớp đệ thất trường Nguyễn Hoàng Qtrị niên khóa 1965-1966 thì Mạ con và các em phải ra lại thôn Đệ tứ ở chung lại với gia đình bên mệ ngoại con vì chi công an hay còn gọi là chi cảnh sát quốc gia hay bị pháo kich rất nguy hiểm.  Con còn nhớ một đêm nọ khi bên quận Hải lăng bị pháo kích và chi công an cũng bị pháo mấy quả 82 ly làm chết oan mấy người tù chính trị đang bị tạm giam ở chi. Thế là Ba phải ở lại làm việc một mình và ăn cơm tháng tại nhà o Hải thôn Diên sanh.



                                               Ba với o Hiệp Chú Thịnh và con chụp tết Ất Tỵ 1965
                                                          Tại ảnh quán Lido thị xã Quảng trị

Như thế sau năm 1965 trong Mỹ Chánh gôm chị Biên, a Nghĩa, o Mỹ, chú Thiện, o Hòa và chú Bình. Còn ngoài QT gồm con, o Tâm, o Hiệp, chú Thịnh khoảng năm 1966 mẹ con tại QT bị sa một cặp trai gần đủ tháng đủ ngày theo lời mẹ con nói hậu quả là do đi xe bị dội mạnh và cho đến năm 1967 là sinh chú Trị tức là Trực tuổi Đinh Mùi là con út của cả đại gia đình mình.

Thời gian 1966 trở về sau thuộc thời của rối loạn chính trị tại miền nam,  công danh của ba suy giảm mạnh.  ba không còn làm trưởng chi nữa mà xuống nhân viên vì chế độ cảnh sát đã theo hệ thống quân đội hóa gồm cấp tá và úy mà thôi.  Thêm vào đó sự thanh trừng nhau đảng phái và phe nhóm thành phần của BA. sau đám cưới của chị Biên 1966, ba chỉ có một chiếc xe đạp giàng theo phố Trần Hưng Đạo lên làm tại Ty Cảnh Sát Qtrị,  

Năm 1967 Thành Cổ Qtrị bị phía CS đánh vào để giải thoát tù chính trị.tại Cửa Hậu thôn Đệ tứ, quán của mạ con bán ngay trước Cửa Hậu hay còn gọi là Cửa Lao Xá ngó ra là phường Đệ Tứ. Do đó đêm đêm Ba phải lên chợ Tỉnh trú tại nhà quen là Tiệm tạp hoá Ông Chút gần tiệm Vạn An gần miếu Ông Voi thôn Đệ Nhất đường Quang Trung Qtrị.



đường phố Trần hưng Đạo tỉnh Qtrị năm 1967
thời gian này Ba ngày hai buổi đạp xe đạp đi làm
tại Ty cảnh sát tỉnh Quảng trị.




 Đường Trần Hưng Đạo,phía trước là Kho Gạo An Toàn ngó qua sẽ là ty Cảnh Sát 


********************************* 

HOA KHÔI ĐẤT MỸ CHÁNH

thời niên thiếu


Chị Biên sinh năm Mậu Tý 1948 tại quê Truồi.  Thời niên thiếu cho đến lúc lớn lên thì nhà ở gần chợ Mỹ chánh gần quê ngoại.   Nhà mạ gần cạnh giòng sông Ô Lâu trăm năm nước chảy hiền hòa.  Khi đến tuổi thiếu nữ thì chị càng đẹp khiến cho dân Mỹ chánh ai hồi đó ai cũng biết, ngay ngoài tỉnh Qtrị cũng đông ngườI thương mến chị Biên. Tốt nghiệp trung học chi đi dạy ấp tân sinh cho gần nhà, hồi đó trường của chị dạy ngay trước mặt nhà mạ sau lưng chợ Mỹ chánh.  Chị rất nghiêm, chỉ gằn giọng một tiếng là em út im re.  Con gái đến tuổi cập kê năm đúng 18 tuổI chị đi lấy chồng, bao nhiêu chàng trai gằm ghé nhưng chị chỉ chọn người hùng quân đội mà thôi.  Kết cuộc anh Lê Khắc Kha người quê Ưu điềm đă "chiếm được trái tim"của chị.  Đám cưới năm đó tại Mỹ chánh anh Kha mới còn trung úy tiểu đoàn 2/1 mà thôi.


Chị B đi lấy chồng mấy em còn nhỏ dạI khi đó anh Nghĩa mới 14 –15 tuổi, O Mỹ mới 11 tuổi, đám cưới chị B xong thì cả nhà có thuyên chuyển vào Tây lộc Huế thuê nhà khu công chức chợ Tây lộc, số 34 Đường Trần quốc Toản.  Thời gian này mạ cũng có nồi cháo gà hàng ngày bán tại chợ Tây lộc, nồi cháo gà của mạ nấu rất  ngon ai ăn  cũng khen ngợi cả.  Con cũng có lần vào thăm Tây lộc lúc này chú Bình mới ba hay bốn tuổi mà thôi rất dễ thương, da trắng trẽo , mắt to lông mi dài uốn cong lên như con Tây hàng xóm bà con ai cũng khen thích hết.


CUỘC ĐỜI NGẮN NGŨI CỦA CHỊ-HÔNG NHAN BẠC MỆNH



 Tưởng đời cứ thế êm trôi, Ba cũng có ngườI rễ có chức phận vì sau đám cưới anh Kha lên đại úy và lên tiểu đoàn phó, tiếp đến chuẩn bị cho chức tiểu đoàn trưởng cho nay mai vì anh Kha tốt nghiệp trường võ bị Đà lạt công danh rất vượng.

 Năm 1967 ngoài Qtrị chú Trị ra đờI tại thôn đệ tứ anh Kha khi đó ở tiểu đoàn 2/1 đóng tại La vang nên hay ghé thăm nhà mỗI lần thấy út Trị mớI mấy tháng tuổI đang nằm vẫy đạp trên cái ghế xếp anh vuốt ve cứ khen rằng giống cả chị Biên đủ thấy trong trái tim anh Kha chị là hình ảnh của chị B mà thôi.  Ai có ngờ đâu cái năm này là năm vĩnh biệt của hai vợ chồng anh chị.  Một đêm ngày 9 tháng 9 năm đó có anh rễ bác Tám nhà sau xóm ra nhà Ngoại báo tin dữ là chị cùng hai người khác là tài xế lái xe và em chồng là Lê khắc Ngạc đã bị phục kích chết tại cây số 23. Chiếc xe jeep của 3 người trên đường vô lại Huế vì anh Kha đã vô Huế rồi, đúng ra trời chiều không nên đi chị vắn số mới xui ra như vậy. Chi Khu Phong điền đã đem thiết vận xa ra khu vực ba người bị thảm sát đem xác vô Mang cá Huế.  Ba đêm đó đang trú đêm tại nhà O Chút trên phố Qtrị vội đạp xe đạp trong đêm đó về nhà.  Con còn nhớ rõ đêm đó mắt ba đỏ hoe vì thương con quá mức Ba bước vô nhà Ngoại mà bước chân như xiêu đổ. Ba đã rít biết bao nhiêu là thuốc lào mà không ngăn được cơn xúc động.  Ba như nghe trời đất sụp đổ tan tành, chị B đứa con gái mà ba yêu quý nhất là  niềm hi vọng và kiêu hãnh của ba giờ đã ra người thiên cổ!

Trời mới rạng hai cha con vội tốc xe vào Tây Lộc. Nhà chồng chị B cũng gần nhà Mạ và cũng gần Cửa Ngăn thành Nội Huế.  Bước vào nhà thì đã thấy hai quan tài của hai chị em nằm cạnh nhau, nắp chưa đóng để cho thân nhân nhìn mặt. Con đã tới nhìn mặt chị lần cuối cùng, mắt chị đã thật sự nhẳm như đang ngũ không còn lộ nét gì hãi hùng hay đau đớn, chị đã thật sự trả lại cho đời một kiếp hồng nhan.  Dưới chân hòm anh Kha nằm giãy giụa khóc la kêu tên chị mà thôi. Mặc dầu anh Kha đang bận áo quần lính mà giờ đây chỉ kêu gào thảm thiết mà thôi.  Quan tài đứa em trai mới ra trường ra gấp Qtrị để gặp mặt chị dâu ai dè gặp nhau lần đầu cũng là lần vĩnh quyết rồi hai chị em cùng nhau về thế giới bên kia? Oan khiên cho anh lính tài xế, trai chưa vợ cũng bị chết thảm theo nhau.  

Ngày đưa đám chị lên Dốc Nam Giao, anh Kha lại càng kêu gào thảm thiết hơn nữa, mất chị là anh mất tất cả, hình ảnh hãi hùng khi chiếc xe đã bị lật chị đã bị thương bò tới một đoạn xa rồi mà tên giết người vẫn không tha mạng cho một người đàn bà nó đi tới kêt liễu đời chị. Nhưng làm việc ác thì gặp ác, tên giết người đó vì đã phục kích giết quá nhiều  người nên sau  này bị quận phong điền phục kìch lại và y đã đền tội ác.  Trong cuốn sổ ghi công tác mà ba  mượn đem về nhà cho mọi người coi ngày 9 tháng 9 năm 1967 y có viết rằng đã giết được “hai sĩ quan” một nam một nữ tức là anh Ngạc và chị B . cùng tài xế, cuốn sổ đó mặc dầu bị một viên đạn Thompson xuyên ngang chính giữa nhưng mấy dòng đó cũng được đọc ra và đã chứng tỏ rằng một kẻ say máu ngườI thì sẽ bị oan hồn trả báo mà thôi.

  Chị B và anh Kha lấy nhau chưa có đứa con nào nên sau này anh Kha đi lấy vợ lại tên Thừa con gái Sãi quận Triệu Phong Qtrị. Sau trận Hạ lào 1971 anh Kha vì tánh nóng nãy bị phản binh là thiếu úy tên Cao dưới quyền định bắn chết anh rồi tự sát sau. Ai xui cho tên Cao chỉ bắn anh bị thương ở chân mà thôi.  Sau  này coi thầy có nói rằng vong linh của chị còn đi theo anh Kha mà phò trì cho anh ấy kể cả lúc bại trận Hạ Lào. Trung đoàn 1 chỉ còn tiểu đoàn anh Kha còn gần 80 người còn tiểu đoàn thiếu tá Lê Huấn thì hoàn toàn tan nát , thiếu tá Huấn cũng bị mất xác?

Sau này anh Kha có cho lính xây cái miễu thờ vong linh cả 3 người tại cây số 23 này, nhưng lúc này chỉ còn trơ trọi cái miếu 3 lư hương đó gần một đầm nước còn vạt thông thì đã bị đốn sạch từ lúc nào. Sau 1975, người dân vùng này tin tưởng sự linh thiêng tại miễu này, xe đò qua đây đều dừng lại khấn vái. Chính quyền sau này tìm cách dẹp cái miệu này cho kỳ được và đã thành công.



Miễu 3 người xây nơi chị bị thảm sát tại cây số 23 Quận Phò Trạch Thừa Thiên Sát cạnh quốc lộ 1. Hình này chú Thịnh chụp lúc ra quê xây lăng Ôn Mệ  tai Truồi và trên đường ra Qtrị ghé chùa Sắc tứ thăm mộ Ngoại cùng chú đây sơ là Đinh trọng L.



Một thời gian còn làm tai trung đoàn 1 thì gia đình anh Kha xây tại cạnh đường Lê Huấn một thời gian sau khi lên trung tá thì không còn tác chiến nữa mà làm quận trưởng Quận 3 tại Đà Nẵng cho đến năm 1975.  Sau này anh Kha cũng có đi Mỹ theo diện HO.  Còn anh Nguyễn hoàng Đoan một thời tay dắt con lúc con còn nhỏ dại đi quanh chợ Mỹ chánh để kiếm cách lấy lòng chị Biên mà không thành. Anh giờ là chồng của nữ ca sĩ Khánh Ly hiện Nam California. Anh Đoan đã qua đời tại Garden Grove, Nam California (7/2015).


***********





CUỘC SỐNG GIAN NAN
                                                                                                           

                    NĂM 1975 & QUÊ HƯƠNG THỨ HAI HÀM TÂN BINH TUY





Sau ngày chị Biên mất cuộc đời Ba càng  thấy buồn thảm hơn nhiều.  Tiếp đến là trận Mậu thân 1968 Ba suýt chút nữa là bị bắt tại Tây lộc vì lúc này Ba đang ăn tết trong nhà tại Tây lộc.  Ngoài thôn Đệ tứ Quảng trị thì xóm Hậu bị đánh mạnh nhất, Tết đó cả nhà con khi đó đang bán mua tại cái nhà của dì Liễu số 65 Lê v Duyệt vì ngay trước mặt thành nên bị hư hại nặng nề. sau khi chạy lên tỉnh lánh nạn 2 ngày  về lại thôn đệ tứ thì căn nhà đã bị cháy và hàng hóa  quán của nhà mình căn trước cũng bị thiêu cháy hết sạch.  Sau này mạ con và Tâm , Hiệp , Thịnh, Trị cùng mạ con lên thôn đệ nhất Quảng trị mà mua bán với Dỳ Liễu con ở phố 34 Trưng trắc chợ Tỉnh, riêng con vẫn ở lại tại nhà ngoại để tiếp tục học.  BA dạo này cũng còn làm cho ty CSQG Qtrị, chỉ còn lại chiếc xe đạp làm phương tiện mà thôi, còn xe jeep thì không có  nữa vì đã hết chức vụ chi trưởng  từ lâu.

Cho đến năm 1972 khi đó con đang chuẩn bị học hết lớp 12 thì cả tỉnh Qtrị phải di tản do Mùa Hè Đỏ Lửa.  Gia đình mạ con sau gần một tháng tạm trú tại Tây Lộc sau đó theo dỳ Liễu vào xin ở  nhờ nhà Ô Mười thương gia nước mắm ở đường Hùng Vương Đà nẵng Sau non một tháng tạm trú tại nhà Ô Mười lại phải mua vé máy bay theo Dỳ Liễu  di cư vào tận MÝ Tho.  Ba sau đó được đổi vô làm tại Quận Nhất Thành Nội rồi tiếp đến Đà nẵng và cuối cùng một thời gian ngắn cũng xin đổi vô được Mỹ Tho.  Vào Mỹ Tho ba và nhà mình đều tạm trú tại nhà cậu Bé con 56 Nguyễn Trãi Mỹ Tho. Lúc này con đã nhập ngũ quân trường Quang Trung sau đó lại ra quân trường Đồng đế Nha Trang. Ngày 24 tháng 11 năm 1973, sau khi  mãn khóa con ra phục vụ tiểu khu Qtrị kể từ cuối năm 1973 chứ không xin về MỸ tho cho gần nhà.  Âu cũng là cái số xui cho con như thế sau này mới đi Mỹ theo diện HO được. do tù cải tạo gần 5 năm rưỡi (23/3/1975- 10/6/1980)

Nhà mình ở Mỹ Tho ở tại nhà cậu mợ Bé cho đến ngày sụp đổ 30 tháng 4 năm 1975.  Sau 1975 cả nhà mình từ Mỹ tho lên kinh tế mới Động đền Bình tuy làm rẫy sinh sống với di dân Quảng trị(đi từ năm 1973 theo chương trình khẩn hoang lập ấp ) rồi Ba cũng như các cậu con ai có dính líu chính quyền cũ phải đi cải tạo. Ba cải tạo tại Đức linh gần Hàm tân con thì cải tạo ngoài Quảng trị rồi bị ra Thanh Hóa sau chót là Bình điền thừa thiên.  Ba ở cải tạo  ở Đức linh vì già cả nên được cho giữ cái việc chăn bò nên cũng đỡ vất vã, chưa tới 3 năm cải tạo(1977) Ba được tha về lại địa phương là Động đền Hàm tân.  Về địa phương Ba đau đầu gối không đi cuốc đất được ở nhà lo chăn nuôi phơi khoai phơi sắn, Tâm Hiệp lần hồi phấn đấu cũng được đi sư phạm, việc rẫy bái thì Thịnh Trực lo hết, 2 đứa em tuy nhỏ nhưng cuốc rất giỏi.  Mạ con thì vất vả sớm hôm ngày gánh 2 buổi chợ còn trưa lại phải lo đi phụ cấy lúa với các em con, Mạ con lạI còn phải lo cho Tâm và Hiệp đang học sư phạm ở Phan thiết nữa.  Thời gian này con chưa về được căn nhà tranh xiêu vẹo theo thời gian không ai sửa sang, đàn ông lúc này đa số đều còn trong tù ít ai được tha về địa phương.  Gia đình các Ngoại con các dỳ các mợ đều ở gần nhau nhưng ai cũng cực khổ đói khát không ai giúp được ai cả.  Tuy thế Ba hay viết thư thăm con nhiều nhất Ba đã gởi thư đến Ái tử Qtrị cho đến Như xuân Thanh hóa hay sau  này Bình điền Thừa thiên. BA còn nhắc nhở Mạ con ở Tây lộc cố gắng gởi thức ăn vật uống cho con ở Bình điền nữa.  Tội nghiệp Mạ con ở Bình tuy cũng vì mấy chuyến bới cho con tận Quảng trị mà hết cả vốn, giá như con biềt nhà mình hồi đó ở Hàm tân đói khổ như thế thì con thà chết chứ không bao giờ để mạ con ra thăm con đâu.



   Cánh thư  BA gởi thăm con trong tù


Thư đề ngày 14 –1-1979 Ba dăn Hòa đang ở
Tây lộc thỉnh thoảng  gời đồ lên cho con ở trại
3 cải tạo Bình điền, Huế.

  Năm 1980 con được về lạI gia đình, lúc này con đã 28 tuổI. vể lạI gần Ba Mạ việc đầu tiên của con là đi rừng đốn cây đem về làm lạI mái nhà tranh đã đến hồI hư nát.  Hai tháng ròng rã con đi rừng đốn cây vác về nhà cho đến khi đủ làm lạI cái nhà của gia đình.  Ngày tháng bên nương bên rẫy có con về thêm một tay lao động trong nhà cũng đỡ nhọc nhằn gia đình mình.  Khoai sắn qua ngày nhưng gia đình mình rất vui là đã đoàn tụ.  Con cuốc khoai thì BA lặt rễ, Ba vừa làm vừa hát tiếng Pháp:

Je suis un chef de vingt- six soldats, et si je suis absent le Paris est perissable.

Con còn nhớ là có ngày Ba đố con như câu tiếng Pháp trên khi muốn nói đó là mẫu tự A vậy.  Tuy nghèo BA cũng tha thiết muồn hỏI vợ cho con, vợ con bây giờ đây là ngườI dâu Ba thích nhất.  RồI cái gì đến lạI đến, BA rất ý hợp tâm đầu vớI ba của vợ con ngày đầu năm dương lịch năm 1983 là ngày cướI của vợ chồng chúng con cái ngày Ba thích chọn cho dễ nhớ sau này.- Nouvel an- BA hay  nói tiếng pháp như vậy đó.


Tuy nghèo nhưng ba cũng muốn cưới vợ cho con
Ngày 1-1-1983 là ngày cưới Phúc và Huệ. (Hai thân phụ đang lạy trước bàn thờ nhà gái)



Vợ chồng con về sống chung trong gia đình mình đùm bọc nhau dướI mái tranh nghèo. Chén cơm gạo  hẩm mà chỉ dành cho bữa trưa mà thôi còn chiều về thì cắt khoai ra nấu cháo cũng nhờ sống gần biển nên còn đôi ba con cá tươi mà sống qua ngày.  Mạ con thì hai bữa chợ gánh hàng tạp nhạp như cau khô thuốc vấn thế mà càng ngày càng vơi bớt đi mà nợ cứ tiếp tục đầy thêm.  Nguyên nhân đây là vùng cát trắng đất đai bạc màu không làm gì nuôi đủ con người.  Số phận những con người ở vùng kinh tế mới là thế đó, vợ con mang bầu nhưng mấy ký gạo hẩm tiêu chuẩn giáo viên cũng đắp đổI cho gia đình nhà chồng.  Rồi lại phải ăn thêm bột sắn thế cơm.  Vợ chồng con sinh con đầu lòng dười mái tranh của Nội, ngày ngày Ba ru cháu ngủ rồi bao nhiêu câu hò của quê hương BA đều trao vào tai cháu.



 Con trai đầu chúng con dưới mái tranh nghèo của ba, phía đắng sau là cái phòng che lá của BA nằm
( con rễ bác Phục ở cạnh nhà chụp cho khi họ ở Tây Đức vể thăm nhà Tết Giáp tý 1984).

con gái 7 nghề
Ngồi lê là 1
Dựa cột là 2
Theo trai lả
Ăn quà là 4
Dựa cột là 5
Hay nằm là 6
Láu táu là 7

Những câu đồng dao từ thuở xưa Ba đều cố gắng ru cho cháu ngủ tuy thế có khi BA đã muốn ngủ rồi mà thằng cháu còn vẫy đạp trong nôi.
Rồi vợ chồng con phải bồng trống nhau lên vùng cao tạm trú mái trường quê cho vợ con tiện bề dạy học.  Thời gian này Thịnh đã xa nhà đi học nghề sư phạm, nhà mình chỉ còn lạI BA Mạ và Trực, cũng may còn có O Tâm phụ trợ cho nhà mình. BA thỉnh thoảng lại ra Cam ranh O MỸ cũng hay bồI dưỡng thêm cho Ba. Thuở này trong Bình tuy thì có o Tâm ngoài Cam ranh thì có O Mỹ, hai cô con gái đã giúp đỡ cho gia đình qua cơn hoạn nạn nhiều lắm.  Con thì ở trên vùng cao sinh con đẻ cái nhiều thêm rẫy nương không đủ sống , làm củi, đốt than, bắp khoai qua ngày kiếp nghèo còn đeo đẵng.

Bước vào năm 1990 chương trình đi Mỹ diện HO ra đời, nhà con cũng nuôi mộng ra đi, chạy giấy chạy tờ cũng nhờ em út nhất là phía o Tâm yểm trợ.  Ba cũng vui sướng trông chờ.

Qua bao nhiêu gian nan chạy ngược chạy xuôi cuối cùng nhà con cũng được phỏng vấn vào ngày 13 tháng 1 năm 1994.  Tết năm Giáp tuất 1994 là cái tết vui  nhất cho cả nhà mình.  Sao không vui được nếu con đi được thì cả trời hy vọng cho gia đình.


Tết giáp tuất 1994 sau ngày gia đình con phỏng vấn
 đi MỸ ai cũng hi vọng. Ba vui vẽ chụp chung với gia đình con tại nhà bên vợ con- gồm 2 vợ chồng cùng 4 cháu Trung, Khang, Lâm Ân và Viễn Dương nhỏ nhất còn Lâm Thư thì còn nằm trong bụng mẹ.





Mồng 4 tết giáp tuất 1994 ngày kỵ ông nội hàng năm
Tại Động đền cả nhà đoàn tụ vui vẻ nhất vì con đã qua  được giai đoạn phỏng vấn HO. Có ngờ đâu đây Là cái kỵ cuối cùng có mặt BA trong đời.

Chúng con đóng góp nhau làm sao phải xây cái nhà cho ba ở để yên tâm trước khi ra đi.  Ai dè đâu do có thai con gái út là Lâm Thư nên phái đoàn MỸ phảI trì hoãn chuyến đi MỸ của gia đình con.  Bạn bè kẻ trước nguời sau lần lượt ra đi chỉ gia đình con là còn chờ đợi.  Rồi chuyện giấy tờ, tái khám lung tung làm cho ai trong nhà mình đều nóng ruột và còn sinh ra tuyệt vọng.

 Ngày 7 tháng 8  1994 con gái út Lâm Thư của chúng con ra đời.  Linh cảm nào xui cho BA cầm tay cháu lại báo trước: Cháu ra đời thì Ông cũng sắp sửa ra đi vậy.

Mông 4 tềt Giáp tuất 1994 bức hình cuối cùng
       của Ba
  



  Căn nhà cuối cùng  mà BA đã ở



==================================================

NGƯỜI CON DÂU TRỞ VỀ THEO LỜI KHẤN NGUYỆN



Xây lăng quê Nội Truồi việc thứ nhất

Thế là ngày 2 tháng 8 năm 1995 gia đình con đến Mỹ . Nhờ vào sự chắt chiu dành dụm của vợ con Trần thị túy Huệ , người con dâu mà Ba ưng ý lúc sanh tiền.

sau khi trả hết nợ nần qua năm 1996 chúng con lo xong chuyện Lăng Mộ cho Ông Mệ ngoài làng đúng như lời khấn của con trước mộ Ôn Mệ lúc ra Trung lo giấy tờ 1991.



gia đình chú Tương (thím Luông ) trước lăng Ông Nội khánh thành 1996

Con thực hiện điều này trước cũng muốn cho ba vui lòng vì khi sinh tiền Ba không làm nỗi mà chỉ ấp ủ trong lòng. Nguyên uỷ là do cái nghèo mà ba đành im lặng .



gia đình chú trước lăng Mệ( khánh thành 1996)



Thứ hai:Thực hiện tâm nguyện cho BA lúc chúng con ra đi:

Chúng con canh cánh bên lòng chuyện trả hiếu cho Ba . Thế là đúng 3 năm như lòng tâm nguyện của vợ con đã trở về laị thôn Động Đền Hàm tân xây lăng cho Ba và tạ ơn xóm làng.




Dâu của Ba đã về xây lăng cho Ba sau 3 năm 
 giã
 từ quê hương (ngày 9 tháng 5 năm 1999)

Ngày vợ con về chỉ đem theo con gái út là Đinh thị Lâm Thư khi sinh ra mấy tháng còn cơ may đươc Ba gặp mặt và cháu được Ba cầm tay nhắc nhở .

Bà con đều có mặt rất đông . Ngoài làng có chú Tương vô và làm chủ lễ. O Hương con dì Nhỏ Đông hà cũng vô, Cam ranh , Phan thiết đều vô . Sài gòn vợ chồng O Hoà và Dũng cùng 2 cháu Thảo Cường cũng ra. Thương con chú Tương ở Long khánh đều ra. Bên ngoại con Cậu Hoa và Dì Thừa và anh em ngoaị con từ Trị an Bà Rịa đều về đông .Bên vợ con có mặt đông đúc để mừng cho vợ chồng con tròn đẹp đều ước nguyên là hoàn thành chữ hiếu và đạo làm dâu .

Bạn hữu xóm giềng ai cũng tới . Chú Tương thay mặt chị dâu là Mạ con , đứng cạnh nhạc phụ con và cậu Hoa con nói lên tiếng nói tri ân xóm giềng làng nước . Xong việc lăng Ba ai cũng khen cũng cảm động hết .


xã Tân Thiện, Hàm tân B. Thuận
Ngaỳ khánh thành lăng Ba 9/5/1999 DL
Mạ con và vợ con , 2 mẹ con O Hiệp (út Tý) và chú Tương –đứng sau lưng vợ con là O Hương từ Đông hà vô


Xong việc thì thân thích ai ai cũng được vợ con biếu một số tiền làm quà tái ngộ. Cái đáng quý là số tiền này kết tinh từ sự dành dụm vén xéo trong ngoài của vợ con mà thành . Chúng con ra đi tuy chưa thành đạt như bạn bè nhưng không bao giờ quên cái lòng hiếu để làm đầu . Xứ lạ quê người không bao giớ đua đòi hưởng thụ mà luôn luôn nghĩ đến tổ tông ông bà và cha mẹ . Đó là niềm trăn trở mà chúng con ngày đêm hằng tâm niệm .

Xong việc xây lăng chú Tương cũng nhắn vào trong phim gởi qua Mỹ chú rất khen ngợi tấm lòng hiếu thảo của vợ con .

Ly hương không ly tổ, mặc dầu đã quá 10 năm viễn xứ nhưng vợ chồng con hằng nhắc nhở con cái luôn luôn nhớ đến tổ tiên ông bà ; nhất là cố gắng chăm lo học hành làm sao sau này rạng rỡ tổ tông .

Có lăng miếu tôn nghiêm cũng là dịp cho con cháu Ba tại quê hương thứ 2 Bình Tuy sau này là tỉnh Bình Thuận tụ hội mỗi dịp ngày đơm tháng kỵ đến .



O Tâm cùng các cháu đứng trước lăng mới của Ba trong dịp tết về








TU SỬA TỪ ĐƯỜNG NGOÀI QUÊ TRUỒI




Sau dịp Thanh Minh tu sửa mộ phấn tổ tiên , khang trang lại bàn thờ chú Tương đứng với em Ái trươc bàn thờ tại Truồi 
năm  2000

Cây có cội nước có nguồn, thời gian như giòng sông Truồi trong xanh lững lờ ngày đêm trôi qua bến nước Xuân Lai . Giòng họ Đinh theo vận nước nổi trôi hiện nay đã thiên cư khắp chốn .

Tuy vậy, chốn Từ Đường thì phận con cháu chớ BAO GIỜ QUÊN LÃNG . Cũng như cây kia tuy nghìn nhánh mà đều phát nguyên từ một cội.

Bởi thế, cho nên lư hương bát nước con cháu phải lo , thứ bậc tuổi tên chớ nên xao lãng – vì sao vậy ?

- Vì KHÔNG CÓ MẢ ĐỐ Ả LÀM NÊN


Lời xưa đã dạy rành rành, bổn phận con cháu ai ai cũng phải nhất tề gánh vác .



Hôm nay nơi chốn viễn phương , một lòng chúng con khấn nguyện Anh Linh Tiên Tổ , hương linh BA khôn thiêng phò trì gia hộ cho chúng con chân cứng đá mềm thập phần chu toàn bao niềm ước nguyện .

Lòng thành chấp bút , khẩn xin ơn trên giòng họ Đinh Trọng gia độ cho con cháu công thành danh toại, sáng lạng tương lai, làm đẹp mặt rạng danh giống nòi .




bàn thờ Ông Mệ tại Truồi


San Jose California, Hoa kỳ
Ngày rằm tháng chạp năm Ất Dậu 2005
(ngày 14 tháng 1 năm 2006 DL)

Thứ Nam Đinh trọng Phúc
bút hiệu ĐINH HOA LƯ

edition 13/4/ Đinh Dậu
8/5/2017 DL 

CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ...

CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ... Thôi đúng rồi! Ngọn lửa bốc lên từ đằng cái khe nhỏ nơi những thợ săn Tân Thắng...