Lời tựa: thời gian như bóng câu qua
cửa sổ, mới đó mà Ba đã ra đi hơn mười một thu rồi. Hôm nay nơi xứ người ngàn trùng xa cách con
chợt nhớ đến Ba, nhớ đến những ngày đói khổ nơi quê hương yêu dấu. Ba hỡi, khi nhớ đến Ba con không cầm được
nước mằt. Giờ đây chén cơm đã đầy, áo
măc đã thừa thì Ba đã khuất núi từ thuở nào. Nhớ ngày xưa Ba con mình khoai sắn
có nhau thế mà giờ đây con chỉ có thể trả hiếu cho Ba bằng những dòng hồi ký
này thôi, bằng những dòng chữ do công ơn Ba Mẹ cho con ăn học mà thành. Con
thành tâm cố gắng lục lọi lại trong tiềm thức những ký ức và hoài niệm mong một
mục đích vẽ lại cuộc đời Ba cho con cho cháu thấy và âu cũng là gặp lại Ba vậy.
San Jose January 11th
2006
thứ nam Đinh Trọng Phúc
********
Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.
.
B ắt
nguồn giữa hai đỉnh núi cao là Bạch Mã (1448 m) và động Truồi (1170m) sông
Truồi lượn lờ uốn khúc nhiều đoạn rồi xuyên qua cầu Truồi, êm ả đi qua mấy thôn
Xuân Lai, Bàng môn xuôi vể hạ lưu mà đổ vào đầm Cầu Hai. Mùa hè khách đi qua cầu Truồi khi ghé mặt
ngó về hạ lưu phía tả ngạn sẽ thấy ngay cây phượng vĩ đỏ ối che rợp cả một bến
đò: đó là bến đò thôn Xuân lai, ngày ngày đưa khách qua lại bên kia là chợ Lộc Điền, bến đò đó ngày ngày đưa đón khách sang sông , bóng cây phượng vĩ tuổI
cùng thế kỷ , cây phượng vĩ được gầy lên từ tay NỘI và bóng miếu kia in dấu
chân và hương khói của cả đời Ông.
THƯỞ THIẾU THỜI
NHÂM TUẤT
1922
Ru con con ngủ cho
muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh…
Tiếng ru con của Mệ đã đưa Ba êm
ả chào đời tại thôn Xuân Lai, cách Nam Phổ chẳng bao xa, lại càng gần bến nước
sông Truồi trong xanh lượn lờ theo thời gian bất diệt. Giọng hò của Mệ, người
con gái xứ Quãng Nam (Xã Thanh Quýt, Huyện Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam) đã theo
chàng trai xứ Huế ra làm dâu quê Truồi- cũng là quê hương của những chùm dâu
ngọt lịm. Giọng hò đó đã ru ba khôn lớn
và yên lành trong giấc ngũ để Mệ còn qua chuyền đò ngang kịp chuyến chợ chiều,
tảo tần giúp chồng nuôi con.
qua cầu ngã nón trông cầu
cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu
bấy nhiêu…
Huế kinh thành hoa lệ cộng thêm ánh sáng văn minh vật chất
của thực dân Pháp làm cho Huế thu hút bao nhiêu người từ quê lên kinh đô mưu
cầu sự sống. Cầu Tràng Tiền, một món quà
mà Pháp đã xây làm quà cho vua Khải Định
được dựng lên bằng bao nhiêu mồ hôi nước mắt của dân đinh, cầu càng xây
thêm nhịp nào thì người vợ càng đợi tin chồng càng lâu chừng đó, vì đi làm sưu
dịch cho Pháp là làm không công cho họ.
Đó là lời ba đã giải thích cho con được hiểu. Mới mười mấy tuổi Ba đã bôn ba lên Kinh đô
Huế kiếm việc làm thuê, nào phụ tiệm may nào phụ thợ lò kem kinh thành hầu kiếm
tiền về cho Nội. Lòng hiếu của Ba thương Mệ, chắt chiu từng
đồng bạc lận trong áo Ba cố đi bộ theo đường xe lửa Ba về đến Truồi cho đỡ tốn
tiền tàu để lấy tiền về cho Mệ. Cái thuở
hàn vi ấy khi mà Mệ tảo tần hôm sớm,Ông thì chỉ may đôi ba cái áo xuyến kiểu
xưa thì cảnh nhà làm sao ra khỏi cảnh
chật vật được. Ba rất hiếu học trong
làng chỉ có lớp 3 mà Pháp ngữ Ba đã giỏi lẳm rồi. Thế là Ba bắt đầu phóng tầm mắt xa hơn nữa
dấn thân lưu lạc tha phương tìm sự nghiệp; Sài gòn hay phương nam đang lôi cuốn
chàng thanh niên trẻ tuổi và người đó là BA.
TRƯỞNG THÀNH
VÀO NAM THẬP NIÊN 1940
18 tuồi Ba bắt đầu ra đi tìm
sự nghiệp
Theo lời Ba thì mẹ của Ông NỘI là
người hoàng phái nên Sài gòn có người bà con bên Mệ của Ba là Nhà in Tôn thất
Lễ (cậu của Ông Nội) nên Ba đã dấn bước vào Sài gòn lúc tròn 18 tuổi. Bước chân giang hồ từ đó nhưng cũng giúp Ba
mở mang trí óc được nhiều lắm, nhất là tiếng Pháp và tiếng Nhật. Đó là cái thuở Viêt nam vào thập niên 1940,
trong Sài gòn lại có bà O con trước của Ông NỘI , O tên là Luyến(?). thời trước 1972 ngoài Quảng Trị, con còn nhớ trong album còn có tấm hình của o Đinh thị Luyến. Sau này ba kể lại trong Sài Gòn o còn có con cái đi quân đội lên thiếu uý
Bước chân viễn khách đưa đẫy cho Ba gặp Mạ
đích của con lúc đó Mạ đang bán thuốc tây tại Đà Lạt, đó là lời ba kể. Hồi này
chuyện tình của Ba và Mạ cũng có phần trở ngại vì Mạ là gốc công giáo. Nhưng
sóng gió nào cũng qua, Ba nhờ thông thạo Pháp và Nhật Ngữ nên Ba Mạ về lại miền
trung cũng có việc làm.
TRỞ VỀ
QUÊ HƯƠNG THẬP NIÊN 1950
Trở lại quê Truồi, lúc này đã có
chị Bích và chị Biên. Cố đô Huế với cầu Tràng tiền sáu vài mười hai nhịp ngang đây khi chiếc xích lô chở gấp chị
Bích vào bệnh viện Huế nhưng chị cũng từ giã cõi đời vì bạo bệnh lúc mới lên
mười(1952). Thời gian này Ba có lẽ đã ra
làm Quãng trị và gia đình Mạ đã về Mỹ chánh gần quê ngoại của Mạ ở Ưu
điềm. Chị Bích Nhâm Ngọ 1942) và chị Biên (Mậu Tý 1948) đều
được sinh ra ở quê Truồi.
Qua thập niên 1950 Ba ra làm việc QT cũng là lúc sinh anh Nghĩa (1952 Nhâm Thìn) và cái số đào hoa ai xui
ai khiến cho a gặp mạ đẻ của con và cuộc tình đó càng thắm thiết tại một vùng
thơ mộng –Lăng cô nơi Phúc đã tượng hình, và khi nghe tin con được sinh ra
ngoài Quảng trị Ba vừa may mắn thoát chết khi bị phục kích bằng mìn nên đặt tên
Phúc cho con. Đến khi lên mấy tuổi con
có dịp về thăm Lăng cô lại và đã ở lại nhà Bác Hai mấy ngày. Thời gian đó tuy
còn nhỏ nhưng con không quên được món đặc sản sò huyết ở Lăng cô mà không nơi
nào ngon bằng. Nào ăn sò huyết rồi lại ra
ngồi chơi tại bãi cát sát ven bồi ven sóng nước tuy nhiên còn nhỏ nên con đâu
dám lội xuống nước?
.
Lăng Cô chân đèo Hải Vân nơi này hẹn hò của mốI tình lãng mạn
giữa Ba và Mạ con và kết quả là có Phúc trên đờI
Sau khi sinh O Mỹ (Ất Mùi 1955) và O Tâm (Bính
Thân 1956) thì Ba cũng làm lên được
trưởng chi công an các quận ở tỉnh Quảng trị.
Con còn nhớ khi còn nhỏ đã theo Ba lên tận quận Cam lộ khi ba làm trưởng
chi trên đó rồi cho đến khi sinh o Hiệp, năm Kỷ Hợi 1959.Sau khi sinh O Hiệp có thể thời gian này ba đổi lên BA Lòng cho đến năm 1961. Con có dịp theo ba lên Quận Ba Lòngcon cũng theo Ba lên
tận quận Ba lòng. Con còn nhớ hồi đó quận Ba Lòng chưa mất, Mỗi lần lên lại
phải chèo đò đi theo giòng ngược lên hướng nguồn sông. Hai ba giờ sáng đò đã rời thị xã QT ngược lên hướng núi. Thời đó làm gì có
máy để chạy đò, phải chèo hơn suốt một ngày đến năm sáu giờ chiều mới đến thôn
Đá nổi gần Rà Vịnh, Ba Lòng. Làm sao con
quên được lúc chỉ là cậu bé non mười tuổi đi đâu cũng lẻo đẻo theo ba? Thung
lũng Ba Lòng dân mình hồi đó trồng toàn bắp, mùa bắp đến con đâu quên được
những nồi bắp bốc hương thơm ngát và con cũng không quên được cái tình cảm chan
hòa phía bên Quận mỗi lần săn được gà và heo rừng cũng đều đem qua chia cho Chi
công an của ba.
Sau khi O Hòa ra đời (Canh Tý
1960) thì đến Tân Sửu 1961 em Đinh trọng Lĩnh
cũng được sinh ra nhưng chỉ năm sáu tháng thì bị cơn động kinh vì quá
sốt và qua đời tại bệnh viện QT (rạng
mồng 1 tháng 10 ÂL 1961). Đám của Lĩnh gặp ơn Phật táng tại chùa Ái tử
Quảng trị lúc mệ ngoại con tu ở đó và
may mắn thay gặp lúc chư tăng đang mùa kiết hạ nên gặp rất đông đại đức hòa
thượng ra tiếp dẫn. Đám của em Lĩnh lúc
Ba đang về làm ở Đông hà. Đám xong thì ông NỘI từ Truồi mới ra kịp và chỉ thắp
hương bên bàn thờ của em con tại nhà Ngoại của chúng con tại 127 đường Lê văn Duyệt thôn Đệ Tứ thị
xã Quảng trị mà thôi. Con còn nhớ hình ảnh NộI vừa bước xuống chiếc xích lô vội
chạy vội vô bàn thờ khóc ba tiếng và có trách rằng sao lại đặt tên em là Lĩnh
sao không biết rằng đó là tên Húy của tổ tiên dòng họ Đinh( tức là ĐINH TIÊN
HOÀNG ĐẾ-ĐINH BỘ LĨNH), có lẽ Nội tin rằng vì húy kỵ mà nhà mình bị tổ tiên quở
cũng nên. Hồi đó Ba có giải thích rằng
vì Mạ con tên là Mai mà tỉnh QT có ngọn Mai Lĩnh là cao nhất (núi Mai sông Hãn)
nên Ba cao hứng mà đặt tên cho con trai
chớ không về Truồi mà tra cứu cho kỹ càng trước khi đặt tên cho con trai mình.
Hai anh em Nghĩa và Phúc (chụp tại ảnh quán
Lido Quảng trị khoảng năm 1960)
Hai năm sau Thịnh ra đời (Quý Mão
1963) tai QT và em Bình vào cuối năm 1963 tại Mỹ Chánh. thời gian này Ba tiếp tục làm tại Đông Hà thì em Hương cũng sinh ra tại Đông hà Quảng trị (Giáp thìn 1964). Thế là
con lại có thêm em gái (con dì Dỏ) người em gái ra đời tại thôn An Lạc bên
giòng Miêu giang Đông hà Quảng trị.
Con lại nhớ hè năm 1964 khi Ba đã
vào làm tại chi công an Hải Lang . Lúc đó nhà mạ con cũng vào ở với Ba tại Chi.
Con vẫn ở học tại nhà mệ Ngoại ở thôn Đệ tứ QTrị nhân dịp nghỉ hè vào Hải lăng chơi. Hè đó Dì DỎ sinh xong
em Hương tại Đông hà, dì bồng Hương khi đó mới khoảng một hai tháng tuổi vào
trả cho Ba tại chi công an Hải lăng. Mạ con vẫn săn sóc Hương, khi đó Thịnh lớn
hơn Hương mấy tháng. Mái sau của Chi
Công an Hải lăng nơi nhà mình tạm ở, trên cái đi văng Thịnh và Hương ngày ngày
nằm sóng đôi còn mạ con thì lo chăm sóc.
Nhưng chỉ vài ngày sau vì tình mẹ dì Dỏ từ Đông hà vào xin Hương lại và
Dì nói lý do vì quá căng sữa. Chính cái
số đào hoa của Ba làm cho Ba có nhiều anh em tuy khác mẹ nhưng vẫn thương nhau
vì chỉ cùng chung huyết thống, chỉ tội cho thân phận lạc loài như O Hương sinh
ra thiếu vắng tình cảm của Ba cũng như bên Nội thì thật thiệt thòi cho Hương
nhiều lắm. Ba có biết không, sau cái
ngày sụp đổ 1975, một ngày con trong đoàn tù binh trên đường lên Cồn tiên Gio
linh tăng gia sản xuất trên đường di chuyển khi dừng chân tạm nghỉ bên cầu Đông
HÀ gần thôn An Lạc, con đã gặp được o Hương.
Hương khi đó là một em bé lạc loài tay đang nách một mẹt bánh mỳ bán cho
khách khi xe dừng. Có người quen bên
đường, O Dung bạn mạ con người cùng thôn đệ tứ đã nhìn ra con và o Dung liền
chỉ cho Hương nói rằng anh của con đó. Thế là Hương quên cả sợ liên hệ với tù
binh mà chạy òa đến bên con, tình huyết
thống sao mà thiêng liêng quá Ba a. Mười
một năm rồi Hương mới thấy mặt anh mình
thế là trên cái mẹt chỉ mấy ổ bánh mỳ Hương cũng trút hết cho con đang mang
thân phận người tù cải tạo. Cũng chưa
hết, em chỉ có mấy đồng cũng nhét hết vào tay con, lên Cồn tiên tối lại nhai ổ
bánh mỳ mà con không cầm được nước mắt.
Hương sinh ra, gia đình mình đã là quá thiếu bổn phận thế mà lúc con sa
cơ đứa em gái cũng không bao quên được
cái tình máu mũ.
hinh nay do em VO hoai THan con cau Phuong chup gui qua ngay 12/10/2017
|
truoc 1960 |
Ba
khoảng trước năm 1960
Khi con lên học lớp đệ thất
trường Nguyễn Hoàng Qtrị niên khóa 1965-1966 thì Mạ con và các em phải ra lại
thôn Đệ tứ ở chung lại với gia đình bên mệ ngoại con vì chi công an hay còn gọi
là chi cảnh sát quốc gia hay bị pháo kich rất nguy hiểm. Con còn nhớ một đêm nọ khi bên quận Hải lăng
bị pháo kích và chi công an cũng bị pháo mấy quả 82 ly làm chết oan mấy người
tù chính trị đang bị tạm giam ở chi. Thế là Ba phải ở lại làm việc một mình và
ăn cơm tháng tại nhà o Hải thôn Diên sanh.
Ba
với o Hiệp Chú Thịnh và con chụp tết Ất Tỵ 1965
Tại ảnh quán Lido thị xã Quảng
trị
Như thế sau năm 1965 trong Mỹ Chánh gôm chị Biên, a Nghĩa, o Mỹ, chú Thiện, o Hòa và chú Bình. Còn
ngoài QT gồm con, o Tâm, o Hiệp, chú Thịnh khoảng năm 1966 mẹ con tại
QT bị sa một cặp trai gần đủ tháng đủ ngày theo lời mẹ con nói hậu quả
là do đi xe bị dội mạnh và cho đến năm 1967 là sinh chú Trị tức là Trực tuổi
Đinh Mùi là con út của cả đại gia đình mình.
Thời gian 1966 trở về sau thuộc
thời của rối loạn chính trị tại miền nam, công danh của ba suy giảm mạnh. ba không còn làm trưởng chi nữa mà xuống nhân
viên vì chế độ cảnh sát đã theo hệ thống quân đội hóa gồm cấp tá và úy mà
thôi. Thêm vào đó sự thanh trừng nhau
đảng phái và phe nhóm thành phần của BA. sau đám cưới của chị Biên 1966, ba chỉ
có một chiếc xe đạp giàng theo phố Trần Hưng Đạo lên làm tại Ty Cảnh Sát
Qtrị,
Năm 1967 Thành Cổ Qtrị bị phía CS đánh vào để giải thoát tù chính trị.tại Cửa Hậu thôn Đệ tứ, quán của mạ con bán ngay trước Cửa Hậu hay còn gọi là Cửa Lao Xá ngó ra là phường Đệ Tứ. Do đó đêm đêm Ba phải lên chợ Tỉnh trú tại nhà quen là Tiệm tạp hoá Ông Chút gần
tiệm Vạn An gần miếu Ông Voi thôn Đệ Nhất đường Quang Trung Qtrị.
đường
phố Trần hưng Đạo tỉnh Qtrị năm 1967
thời
gian này Ba ngày hai buổi đạp xe đạp đi làm
tại
Ty cảnh sát tỉnh Quảng trị.
Đường Trần Hưng Đạo,phía trước là Kho Gạo An Toàn ngó qua sẽ là ty Cảnh Sát
*********************************
HOA KHÔI ĐẤT MỸ CHÁNH
thời niên thiếu
Chị Biên sinh năm Mậu Tý 1948 tại quê Truồi. Thời niên thiếu cho đến lúc lớn lên thì nhà ở
gần chợ Mỹ chánh gần quê ngoại. Nhà mạ
gần cạnh giòng sông Ô Lâu trăm năm nước chảy hiền hòa. Khi đến tuổi thiếu nữ thì chị càng đẹp khiến
cho dân Mỹ chánh ai hồi đó ai cũng biết, ngay ngoài tỉnh Qtrị cũng đông ngườI
thương mến chị Biên. Tốt nghiệp trung
học chi đi dạy ấp tân sinh cho gần nhà, hồi đó trường của chị dạy ngay trước
mặt nhà mạ sau lưng chợ Mỹ chánh. Chị
rất nghiêm, chỉ gằn giọng một tiếng là em út im re. Con gái đến tuổi cập kê năm đúng 18 tuổI chị
đi lấy chồng, bao nhiêu chàng trai gằm ghé nhưng chị chỉ chọn người hùng quân
đội mà thôi. Kết cuộc anh Lê Khắc Kha người
quê Ưu điềm đă "chiếm được trái tim"của chị.
Đám cưới năm đó tại Mỹ chánh anh Kha mới còn trung úy tiểu đoàn 2/1 mà
thôi.
Chị B đi lấy chồng mấy em còn nhỏ dạI khi đó anh Nghĩa mới
14 –15 tuổi, O Mỹ mới 11 tuổi, đám cưới chị B xong thì cả nhà có thuyên chuyển
vào Tây lộc Huế thuê nhà khu công chức chợ Tây lộc, số 34 Đường Trần quốc
Toản. Thời gian này mạ cũng có nồi cháo
gà hàng ngày bán tại chợ Tây lộc, nồi cháo gà của mạ nấu rất ngon ai ăn
cũng khen ngợi cả. Con cũng có
lần vào thăm Tây lộc lúc này chú Bình mới ba hay bốn tuổi mà thôi rất dễ
thương, da trắng trẽo , mắt to lông mi dài uốn cong lên như con Tây hàng xóm bà
con ai cũng khen thích hết.
CUỘC ĐỜI NGẮN NGŨI CỦA
CHỊ-HÔNG NHAN BẠC MỆNH
Tưởng đời cứ thế êm trôi, Ba cũng có ngườI rễ
có chức phận vì sau đám cưới anh Kha lên đại úy và lên tiểu đoàn phó, tiếp đến
chuẩn bị cho chức tiểu đoàn trưởng cho nay mai vì anh Kha tốt nghiệp trường võ
bị Đà lạt công danh rất vượng.
Năm 1967 ngoài Qtrị chú Trị ra đờI tại thôn đệ
tứ anh Kha khi đó ở tiểu đoàn 2/1 đóng tại La vang nên hay ghé thăm nhà mỗI lần
thấy út Trị mớI mấy tháng tuổI đang nằm vẫy đạp trên cái ghế xếp anh vuốt ve cứ
khen rằng giống cả chị Biên đủ thấy trong trái tim anh Kha chị là hình ảnh của
chị B mà thôi. Ai có ngờ đâu cái năm này
là năm vĩnh biệt của hai vợ chồng anh chị.
Một đêm ngày 9 tháng 9 năm đó có anh rễ bác Tám nhà sau xóm ra nhà Ngoại
báo tin dữ là chị cùng hai người khác là tài xế lái xe và em chồng là Lê khắc
Ngạc đã bị phục kích chết tại cây số 23. Chiếc xe jeep của 3 người trên đường vô
lại Huế vì anh Kha đã vô Huế rồi, đúng ra trời chiều không nên đi chị vắn số
mới xui ra như vậy. Chi Khu Phong điền đã đem thiết vận xa ra khu vực ba người
bị thảm sát đem xác vô Mang cá Huế. Ba
đêm đó đang trú đêm tại nhà O Chút trên phố Qtrị vội đạp xe đạp trong đêm đó về
nhà. Con còn nhớ rõ đêm đó mắt ba đỏ hoe
vì thương con quá mức Ba bước vô nhà Ngoại mà bước chân như xiêu đổ. Ba đã rít
biết bao nhiêu là thuốc lào mà không ngăn được cơn xúc động. Ba như nghe trời đất sụp đổ tan tành, chị B
đứa con gái mà ba yêu quý nhất là niềm
hi vọng và kiêu hãnh của ba giờ đã ra người thiên cổ!
Trời
mới rạng hai cha con vội tốc xe vào Tây Lộc. Nhà chồng chị B cũng gần nhà Mạ và
cũng gần Cửa Ngăn thành Nội Huế. Bước
vào nhà thì đã thấy hai quan tài của hai chị em nằm cạnh nhau, nắp chưa đóng
để cho thân nhân nhìn mặt. Con đã tới nhìn mặt chị lần cuối cùng, mắt chị đã
thật sự nhẳm như đang ngũ không còn lộ nét gì hãi hùng hay đau đớn, chị đã thật
sự trả lại cho đời một kiếp hồng nhan.
Dưới chân hòm anh Kha nằm giãy giụa khóc la kêu tên chị mà thôi. Mặc dầu
anh Kha đang bận áo quần lính mà giờ đây chỉ kêu gào thảm thiết mà thôi. Quan tài đứa em trai mới ra trường ra gấp
Qtrị để gặp mặt chị dâu ai dè gặp nhau lần đầu cũng là lần vĩnh quyết rồi hai
chị em cùng nhau về thế giới bên kia? Oan khiên cho anh lính tài xế, trai chưa
vợ cũng bị chết thảm theo nhau.
Ngày đưa
đám chị lên Dốc Nam Giao, anh Kha lại càng kêu gào thảm thiết hơn nữa, mất chị
là anh mất tất cả, hình ảnh hãi hùng khi chiếc xe đã bị lật chị đã bị thương bò
tới một đoạn xa rồi mà tên giết người vẫn không tha mạng cho một người đàn bà
nó đi tới kêt liễu đời chị. Nhưng làm việc ác thì gặp ác, tên giết người đó vì
đã phục kích giết quá nhiều người nên
sau này bị quận phong điền phục kìch lại
và y đã đền tội ác. Trong cuốn sổ ghi
công tác mà ba mượn đem về nhà cho mọi
người coi ngày 9 tháng 9 năm 1967 y có viết rằng đã giết được “hai sĩ quan” một
nam một nữ tức là anh Ngạc và chị B . cùng tài xế, cuốn sổ đó mặc dầu bị một
viên đạn Thompson xuyên ngang chính giữa nhưng mấy dòng đó cũng được đọc ra và
đã chứng tỏ rằng một kẻ say máu ngườI thì sẽ bị oan hồn trả báo mà thôi.
Chị B và anh Kha lấy nhau chưa có đứa con nào
nên sau này anh Kha đi lấy vợ lại tên Thừa con gái Sãi quận Triệu Phong Qtrị.
Sau trận Hạ lào 1971 anh Kha vì tánh nóng nãy bị phản binh là thiếu úy tên Cao
dưới quyền định bắn chết anh rồi tự sát sau. Ai xui cho tên Cao chỉ bắn anh bị
thương ở chân mà thôi. Sau này coi thầy có nói rằng vong linh của chị
còn đi theo anh Kha mà phò trì cho anh ấy kể cả lúc bại trận Hạ Lào. Trung đoàn
1 chỉ còn tiểu đoàn anh Kha còn gần 80 người còn tiểu đoàn thiếu tá Lê Huấn thì
hoàn toàn tan nát , thiếu tá Huấn cũng bị mất xác?
Sau
này anh Kha có cho lính xây cái miễu thờ vong linh cả 3 người tại cây số 23 này,
nhưng lúc này chỉ còn trơ trọi cái miếu 3 lư hương đó gần một đầm nước còn vạt
thông thì đã bị đốn sạch từ lúc nào. Sau 1975, người dân
vùng này tin tưởng sự linh thiêng tại miễu này, xe đò qua đây đều dừng lại khấn
vái. Chính quyền sau này tìm cách dẹp cái miệu này cho kỳ được và đã thành
công.
Miễu 3 người xây
nơi chị bị thảm sát tại cây số 23 Quận Phò Trạch Thừa Thiên Sát cạnh quốc lộ 1.
Hình này chú Thịnh chụp lúc ra quê xây lăng Ôn Mệ tai Truồi và trên đường ra Qtrị ghé chùa Sắc
tứ thăm mộ Ngoại cùng chú đây sơ là Đinh trọng L.
Một thời gian còn làm tai trung đoàn 1 thì gia đình anh
Kha xây tại cạnh đường Lê Huấn một thời gian sau khi lên trung tá thì không còn
tác chiến nữa mà làm quận trưởng Quận 3 tại Đà Nẵng cho đến năm 1975. Sau này anh Kha cũng có đi Mỹ theo diện HO. Còn anh Nguyễn hoàng Đoan một thời tay dắt
con lúc con còn nhỏ dại đi quanh chợ Mỹ chánh để kiếm cách lấy lòng chị Biên mà
không thành. Anh giờ là chồng của nữ ca sĩ Khánh Ly hiện Nam California. Anh
Đoan đã qua đời tại Garden Grove, Nam California (7/2015).
***********
CUỘC SỐNG GIAN NAN
NĂM 1975 & QUÊ
HƯƠNG THỨ HAI HÀM TÂN BINH TUY
Sau ngày chị Biên mất cuộc đời
Ba càng thấy buồn thảm hơn nhiều. Tiếp đến là trận Mậu thân 1968 Ba suýt chút
nữa là bị bắt tại Tây lộc vì lúc này Ba đang ăn tết trong nhà tại Tây lộc. Ngoài thôn Đệ tứ Quảng trị thì xóm Hậu bị
đánh mạnh nhất, Tết đó cả nhà con khi đó đang bán mua tại cái nhà của dì Liễu
số 65 Lê v Duyệt vì ngay trước mặt thành nên bị hư hại nặng nề. sau khi chạy
lên tỉnh lánh nạn 2 ngày về lại thôn đệ
tứ thì căn nhà đã bị cháy và hàng hóa
quán của nhà mình căn trước cũng bị thiêu cháy hết sạch. Sau này mạ con và Tâm , Hiệp , Thịnh, Trị
cùng mạ con lên thôn đệ nhất Quảng trị mà mua bán với Dỳ Liễu con ở phố 34
Trưng trắc chợ Tỉnh, riêng con vẫn ở lại tại nhà ngoại để tiếp tục học. BA dạo này cũng còn làm cho ty CSQG Qtrị, chỉ
còn lại chiếc xe đạp làm phương tiện mà thôi, còn xe jeep thì không có nữa vì đã hết chức vụ chi trưởng từ lâu.
Cho đến năm 1972 khi đó con
đang chuẩn bị học hết lớp 12 thì cả tỉnh Qtrị phải di tản do Mùa Hè Đỏ Lửa. Gia đình mạ con sau gần một tháng tạm trú tại
Tây Lộc sau đó theo dỳ Liễu vào xin ở
nhờ nhà Ô Mười thương gia nước mắm ở đường Hùng Vương Đà nẵng Sau non
một tháng tạm trú tại nhà Ô Mười lại phải mua vé máy bay theo Dỳ Liễu di cư vào tận MÝ Tho. Ba sau đó được đổi vô làm tại Quận Nhất Thành Nội rồi tiếp đến Đà
nẵng và cuối cùng một thời gian ngắn cũng xin đổi vô được Mỹ Tho. Vào Mỹ Tho ba và nhà mình đều tạm trú tại nhà
cậu Bé con 56 Nguyễn Trãi Mỹ Tho. Lúc này con đã nhập ngũ quân trường Quang Trung
sau đó lại ra quân trường Đồng đế Nha Trang. Ngày 24 tháng 11 năm 1973, sau
khi mãn khóa con ra phục vụ tiểu khu
Qtrị kể từ cuối năm 1973 chứ không xin về MỸ tho cho gần nhà. Âu cũng là cái số xui cho con như thế sau này
mới đi Mỹ theo diện HO được. do tù cải tạo gần 5 năm rưỡi (23/3/1975-
10/6/1980)
Nhà mình ở Mỹ Tho ở tại nhà cậu
mợ Bé cho đến ngày sụp đổ 30 tháng 4 năm 1975.
Sau 1975 cả nhà mình từ Mỹ tho lên kinh tế mới Động đền Bình tuy làm rẫy
sinh sống với di dân Quảng trị(đi từ năm 1973 theo chương trình khẩn hoang lập
ấp ) rồi Ba cũng như các cậu con ai có dính líu chính quyền cũ phải đi cải tạo.
Ba cải tạo tại Đức linh gần Hàm tân con thì cải tạo ngoài Quảng trị rồi bị ra
Thanh Hóa sau chót là Bình điền thừa thiên.
Ba ở cải tạo ở Đức linh vì già cả
nên được cho giữ cái việc chăn bò nên cũng đỡ vất vã, chưa tới 3 năm cải
tạo(1977) Ba được tha về lại địa phương là Động đền Hàm tân. Về địa phương Ba đau đầu gối không đi cuốc
đất được ở nhà lo chăn nuôi phơi khoai phơi sắn, Tâm Hiệp lần hồi phấn đấu cũng
được đi sư phạm, việc rẫy bái thì Thịnh Trực lo hết, 2 đứa em tuy nhỏ nhưng
cuốc rất giỏi. Mạ con thì vất vả sớm hôm
ngày gánh 2 buổi chợ còn trưa lại phải lo đi phụ cấy lúa với các em con, Mạ con
lạI còn phải lo cho Tâm và Hiệp đang học sư phạm ở Phan thiết nữa. Thời gian này con chưa về được căn nhà tranh
xiêu vẹo theo thời gian không ai sửa sang, đàn ông lúc này đa số đều còn trong
tù ít ai được tha về địa phương. Gia
đình các Ngoại con các dỳ các mợ đều ở gần nhau nhưng ai cũng cực khổ đói khát
không ai giúp được ai cả. Tuy thế Ba hay
viết thư thăm con nhiều nhất Ba đã gởi thư đến Ái tử Qtrị cho đến Như xuân
Thanh hóa hay sau này Bình điền Thừa
thiên. BA còn nhắc nhở Mạ con ở Tây lộc cố gắng gởi thức ăn vật uống cho con ở
Bình điền nữa. Tội nghiệp Mạ con ở Bình
tuy cũng vì mấy chuyến bới cho con tận Quảng trị mà hết cả vốn, giá như con
biềt nhà mình hồi đó ở Hàm tân đói khổ như thế thì con thà chết chứ không bao
giờ để mạ con ra thăm con đâu.
Cánh thư BA gởi thăm con trong tù
Thư đề ngày 14 –1-1979 Ba dăn Hòa đang ở
Tây lộc thỉnh thoảng gời đồ
lên cho con ở trại
3 cải tạo Bình điền, Huế.
Năm
1980 con được về lạI gia đình, lúc này con đã 28 tuổI. vể lạI gần Ba Mạ việc
đầu tiên của con là đi rừng đốn cây đem về làm lạI mái nhà tranh đã đến hồI hư
nát. Hai tháng ròng rã con đi rừng đốn
cây vác về nhà cho đến khi đủ làm lạI cái nhà của gia đình. Ngày tháng bên nương bên rẫy có con về thêm
một tay lao động trong nhà cũng đỡ nhọc nhằn gia đình mình. Khoai sắn qua ngày nhưng gia đình mình rất
vui là đã đoàn tụ. Con cuốc khoai thì BA
lặt rễ, Ba vừa làm vừa hát tiếng Pháp:
Je
suis un chef de vingt- six soldats, et si je suis absent le Paris est
perissable.
Con
còn nhớ là có ngày Ba đố con như câu tiếng Pháp trên khi muốn nói đó là mẫu tự
A vậy. Tuy nghèo BA cũng tha thiết muồn
hỏI vợ cho con, vợ con bây giờ đây là ngườI dâu Ba thích nhất. RồI cái gì đến lạI đến, BA rất ý hợp tâm đầu
vớI ba của vợ con ngày đầu năm dương lịch năm 1983 là ngày cướI của vợ chồng
chúng con cái ngày Ba thích chọn cho dễ nhớ sau này.- Nouvel an- BA
hay nói tiếng pháp như vậy đó.
Tuy nghèo nhưng ba cũng muốn cưới vợ cho con
Ngày 1-1-1983 là ngày cưới Phúc và Huệ. (Hai thân phụ đang lạy trước
bàn thờ nhà gái)
Vợ chồng con về sống chung trong gia đình mình đùm bọc
nhau dướI mái tranh nghèo. Chén cơm gạo
hẩm mà chỉ dành cho bữa trưa mà thôi còn chiều về thì cắt khoai ra nấu
cháo cũng nhờ sống gần biển nên còn đôi ba con cá tươi mà sống qua ngày. Mạ con thì hai bữa chợ gánh hàng tạp nhạp như
cau khô thuốc vấn thế mà càng ngày càng vơi bớt đi mà nợ cứ tiếp tục đầy
thêm. Nguyên nhân đây là vùng cát trắng
đất đai bạc màu không làm gì nuôi đủ con người.
Số phận những con người ở vùng kinh tế mới là thế đó, vợ con mang bầu
nhưng mấy ký gạo hẩm tiêu chuẩn giáo viên cũng đắp đổI cho gia đình nhà
chồng. Rồi lại phải ăn thêm bột sắn thế
cơm. Vợ chồng con sinh con đầu lòng dười
mái tranh của Nội, ngày ngày Ba ru cháu ngủ rồi bao nhiêu câu hò của quê hương
BA đều trao vào tai cháu.
Con trai đầu chúng con dưới mái tranh
nghèo của ba, phía đắng sau là cái phòng che lá của BA nằm
( con rễ bác Phục ở cạnh nhà chụp cho khi
họ ở Tây Đức vể thăm nhà Tết Giáp tý 1984).
con gái 7 nghề
Ngồi lê là 1
Dựa cột là 2
Theo trai lả
Ăn quà là 4
Dựa cột là 5
Hay nằm là 6
Láu táu là 7
Những câu đồng dao từ thuở xưa Ba đều cố gắng ru cho cháu
ngủ tuy thế có khi BA đã muốn ngủ rồi mà thằng cháu còn vẫy đạp trong nôi.
Rồi vợ chồng con phải bồng trống nhau lên vùng cao tạm trú mái trường quê cho vợ
con tiện bề dạy học. Thời gian này Thịnh
đã xa nhà đi học nghề sư phạm, nhà mình chỉ còn lạI BA Mạ và Trực, cũng may còn
có O Tâm phụ trợ cho nhà mình. BA thỉnh thoảng lại ra Cam ranh O MỸ cũng hay
bồI dưỡng thêm cho Ba. Thuở này trong Bình tuy thì có o Tâm ngoài Cam ranh thì
có O Mỹ, hai cô con gái đã giúp đỡ cho gia đình qua cơn hoạn nạn nhiều
lắm. Con thì ở trên vùng cao sinh con đẻ
cái nhiều thêm rẫy nương không đủ sống , làm củi, đốt than, bắp khoai qua ngày
kiếp nghèo còn đeo đẵng.
Bước
vào năm 1990 chương trình đi Mỹ diện HO ra đời, nhà con cũng nuôi mộng ra đi,
chạy giấy chạy tờ cũng nhờ em út nhất là phía o Tâm yểm trợ. Ba cũng vui sướng trông chờ.
Qua
bao nhiêu gian nan chạy ngược chạy xuôi cuối cùng nhà con cũng được phỏng vấn
vào ngày 13 tháng 1 năm 1994. Tết năm
Giáp tuất 1994 là cái tết vui nhất cho
cả nhà mình. Sao không vui được nếu con
đi được thì cả trời hy vọng cho gia đình.
Tết giáp tuất 1994 sau ngày gia đình con phỏng vấn
đi MỸ ai cũng hi vọng. Ba vui
vẽ chụp chung với gia đình con tại nhà bên vợ con- gồm 2 vợ chồng cùng 4 cháu
Trung, Khang, Lâm Ân và Viễn Dương nhỏ nhất còn Lâm Thư thì còn nằm trong bụng
mẹ.
Mồng 4 tết giáp tuất 1994 ngày kỵ ông nội hàng năm
Tại Động đền cả nhà đoàn tụ vui vẻ nhất vì con đã qua được giai đoạn phỏng vấn HO. Có ngờ đâu đây Là cái kỵ cuối cùng có mặt BA trong đời.
Chúng con đóng góp nhau làm
sao phải xây cái nhà cho ba ở để yên tâm trước khi ra đi. Ai dè đâu do có thai con gái út là Lâm Thư
nên phái đoàn MỸ phảI trì hoãn chuyến đi MỸ của gia đình con. Bạn bè kẻ trước nguời sau lần lượt ra đi chỉ gia đình con là còn chờ đợi. Rồi chuyện giấy tờ, tái khám lung tung làm cho ai trong nhà mình đều nóng ruột và
còn sinh ra tuyệt vọng.
Ngày 7 tháng 8
1994 con gái út Lâm Thư của chúng con ra đời. Linh cảm nào xui cho BA cầm tay cháu lại báo
trước: Cháu ra đời thì Ông cũng sắp sửa ra đi vậy.
Mông 4 tềt Giáp tuất 1994 bức hình cuối cùng
của Ba
Căn nhà cuối cùng mà BA đã ở
==================================================
NGƯỜI CON DÂU TRỞ VỀ THEO LỜI KHẤN NGUYỆN
Xây lăng quê Nội Truồi việc thứ nhất
Thế là ngày 2 tháng 8 năm 1995 gia đình con đến Mỹ . Nhờ vào sự chắt chiu dành dụm của vợ con Trần thị túy Huệ , người con dâu mà Ba ưng ý lúc sanh tiền.
sau khi trả hết nợ nần qua năm 1996 chúng con lo xong chuyện Lăng Mộ cho Ông Mệ ngoài làng đúng như lời khấn của con trước mộ Ôn Mệ lúc ra Trung lo giấy tờ 1991.
gia đình chú Tương (thím Luông ) trước lăng Ông Nội khánh thành 1996
Con thực hiện điều này trước cũng muốn cho ba vui lòng vì khi sinh tiền Ba không làm nỗi mà chỉ ấp ủ trong lòng. Nguyên uỷ là do cái nghèo mà ba đành im lặng .
gia đình chú trước lăng Mệ( khánh thành 1996)
Thứ hai:Thực hiện tâm nguyện cho BA lúc chúng con ra đi:
Chúng con canh cánh bên lòng chuyện trả hiếu cho Ba . Thế là đúng 3 năm như lòng tâm nguyện của vợ con đã trở về laị thôn Động Đền Hàm tân xây lăng cho Ba và tạ ơn xóm làng.
Dâu của Ba đã về xây lăng cho Ba sau 3 năm giã từ quê hương (ngày 9 tháng 5 năm 1999)
Ngày vợ con về chỉ đem theo con gái út là Đinh thị Lâm Thư khi sinh ra mấy tháng còn cơ may đươc Ba gặp mặt và cháu được Ba cầm tay nhắc nhở .
Bà con đều có mặt rất đông . Ngoài làng có chú Tương vô và làm chủ lễ. O Hương con dì Nhỏ Đông hà cũng vô, Cam ranh , Phan thiết đều vô . Sài gòn vợ chồng O Hoà và Dũng cùng 2 cháu Thảo Cường cũng ra. Thương con chú Tương ở Long khánh đều ra. Bên ngoại con Cậu Hoa và Dì Thừa và anh em ngoaị con từ Trị an Bà Rịa đều về đông .Bên vợ con có mặt đông đúc để mừng cho vợ chồng con tròn đẹp đều ước nguyên là hoàn thành chữ hiếu và đạo làm dâu .
Bạn hữu xóm giềng ai cũng tới . Chú Tương thay mặt chị dâu là Mạ con , đứng cạnh nhạc phụ con và cậu Hoa con nói lên tiếng nói tri ân xóm giềng làng nước . Xong việc lăng Ba ai cũng khen cũng cảm động hết .
xã Tân Thiện, Hàm tân B. Thuận
Ngaỳ khánh thành lăng Ba 9/5/1999 DL
Mạ con và vợ con , 2 mẹ con O Hiệp (út Tý) và chú Tương –đứng sau lưng vợ con là O Hương từ Đông hà vô
Xong việc thì thân thích ai ai cũng được vợ con biếu một số tiền làm quà tái ngộ. Cái đáng quý là số tiền này kết tinh từ sự dành dụm vén xéo trong ngoài của vợ con mà thành . Chúng con ra đi tuy chưa thành đạt như bạn bè nhưng không bao giờ quên cái lòng hiếu để làm đầu . Xứ lạ quê người không bao giớ đua đòi hưởng thụ mà luôn luôn nghĩ đến tổ tông ông bà và cha mẹ . Đó là niềm trăn trở mà chúng con ngày đêm hằng tâm niệm .
Xong việc xây lăng chú Tương cũng nhắn vào trong phim gởi qua Mỹ chú rất khen ngợi tấm lòng hiếu thảo của vợ con .
Ly hương không ly tổ, mặc dầu đã quá 10 năm viễn xứ nhưng vợ chồng con hằng nhắc nhở con cái luôn luôn nhớ đến tổ tiên ông bà ; nhất là cố gắng chăm lo học hành làm sao sau này rạng rỡ tổ tông .
Có lăng miếu tôn nghiêm cũng là dịp cho con cháu Ba tại quê hương thứ 2 Bình Tuy sau này là tỉnh Bình Thuận tụ hội mỗi dịp ngày đơm tháng kỵ đến .
O Tâm cùng các cháu đứng trước lăng mới của Ba trong dịp tết về
TU SỬA TỪ ĐƯỜNG NGOÀI QUÊ TRUỒI
Sau dịp Thanh Minh tu sửa mộ phấn tổ tiên , khang trang lại bàn thờ chú Tương đứng với em Ái trươc bàn thờ tại Truồi năm 2000
Cây có cội nước có nguồn, thời gian như giòng sông Truồi trong xanh lững lờ ngày đêm trôi qua bến nước Xuân Lai . Giòng họ Đinh theo vận nước nổi trôi hiện nay đã thiên cư khắp chốn .
Tuy vậy, chốn Từ Đường thì phận con cháu chớ BAO GIỜ QUÊN LÃNG . Cũng như cây kia tuy nghìn nhánh mà đều phát nguyên từ một cội.
Bởi thế, cho nên lư hương bát nước con cháu phải lo , thứ bậc tuổi tên chớ nên xao lãng – vì sao vậy ?
- Vì KHÔNG CÓ MẢ ĐỐ Ả LÀM NÊN
Lời xưa đã dạy rành rành, bổn phận con cháu ai ai cũng phải nhất tề gánh vác .
Hôm nay nơi chốn viễn phương , một lòng chúng con khấn nguyện Anh Linh Tiên Tổ , hương linh BA khôn thiêng phò trì gia hộ cho chúng con chân cứng đá mềm thập phần chu toàn bao niềm ước nguyện .
Lòng thành chấp bút , khẩn xin ơn trên giòng họ Đinh Trọng gia độ cho con cháu công thành danh toại, sáng lạng tương lai, làm đẹp mặt rạng danh giống nòi .
bàn thờ Ông Mệ tại Truồi
San Jose California, Hoa kỳ
Ngày rằm tháng chạp năm Ất Dậu 2005
(ngày 14 tháng 1 năm 2006 DL)
Thứ Nam Đinh trọng Phúc
bút hiệu ĐINH HOA LƯ
edition 13/4/ Đinh Dậu
8/5/2017 DL