Saturday, February 28, 2015

THƯƠNG MẸ







Mẹ ngồi tay ổ bánh mỳ
nhai dần năm tháng chai lỳ thời gian
đắng , cay,  mặn, ngọt chẳng than
không còn biết nhớ , lan man tủi hờn mẹ tôi trí óc mõi mòn
trống không tâm tưởng , chẳng còn bóng con
chẳng mong gần, chẳng ngóng xa
bao năm chờ đợi bây giờ hoài công ?!
bệnh già năm tháng chất chồng
ngày thuơng đêm nhớ bây giờ còn chi !
mẹ còn chỉ một thân gầy
bao năm hao tổn nuôi bầy con thơ ...
bơ phờ hao tổn chẳng màng
giờ đây mặn ngọt chẳng phiền lụy thân
xác xơ như lá cuối mùa
liêu xiêu một bóng thân già cuối đông
làm sao trả được ơn dày
cù lao chín chữ thâm ân mẹ hiền 

chiều tàn ngắm ánh tà dương
gữi lòng theo đám mây bay cuối trời
trời quê còn bóng mẹ già
theo mây con gữi tâm tình nhớ thuơng
bao giờ sông cạn núi mòn
tinh thuơng nhớ mẹ mới đà khuây nguôi


DHL 2/3/2014

Wednesday, February 25, 2015

CHÂN DUNG MỘT H.O.



ĐINH TRỌNG PHÚC, H.25

* Bài và ảnh: HUY PHƯƠNG

- Ông thuộc lớp trẻ vào trận khi mới hai mươi tuổi, phục vụ cho đất nước chưa tới hai năm thì bị bắt làm tù binh, đã qua 5 năm tù khổ sai và 15 năm sống cuộc đời một người dân bị bỏ quên trong vùng “kinh tế mới”.

Đinh Trọng Phúc sinh năm 1953, là con đầu trong một gia đình có năm anh em, tại quê mẹ thuộc làng Nại Cửu Quảng Trị, nhưng nguyên quán ở làng Truồi, nơi nổi tiếng có trái dâu ngọt, thuộc quận Phú Lộc Thừa Thiên. Thân phụ ông đã từng làm trưởng chi Công An qua những quận Ba Lòng, Cam Lộ, Hải Lăng.


 Thuở thiếu thời, Đinh Trọng Phúc theo học tại trường Nam Quảng Trị và Trung Học Nguyễn Hoàng từ năm 1965- 1972. Sau khi đậu tú tài phần II, Đinh Trọng Phúc bị động viên vào khóa 12/72B trường Bộ Binh Thủ Đức. Cuối năm 1973, ông được phân phối về Tiểu Khu Quảng Trị, giữ chức vụ Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 105 ĐPQ. Là một người trai trẻ, sau khi tốt nghiệp trung học, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng của màu hè đỏ lửa, về phục vụ tại quê hương, Đinh Trọng Phúc nghĩ là mình có thể đóng góp chiến công để giữ vững miền Nam theo gót các đàn anh, nhưng định mệnh quá khắt khe. Ngày 23 tháng 3 năm 1975, tiểu khu Quảng Trị được lệnh rút qua tuyến Mỹ Chánh. Tiểu Đoàn 105 ĐPQ án ngữ tại đây để bảo vệ an toàn cho các đơn vị Dù và Thủy Quân Lút Chiến rút về tuyến sau. Nhưng vào sáng hôm sau, quân Bắc Việt đã tràn qua phòng tuyến, Chuẩn úy Đinh Trọng Phúc cùng toàn đơn vị bị bắt làm tù binh tại chỗ. Đây là “tháng ba gãy súng” mà nhà văn TQLC Cao Xuân Huy đã mô tả trong cuốn sách của ông xuất bản tại hải ngoại.

Các tù binh VNCH bị lột giày và đi chân đất trong đêm đó ra tập trung tại Đông Hà. Mười lăm ngày sau đoàn tù binh bị buộc chuyển đi Ba Lòng, một khoảng đường xa gần 40 cây số. Ngày 21 tháng 5 sau khi Saigon thất thủ, Sư Đoàn 337 ( Đoàn 7) lập 5 trại tù tại Ái Tử để giam giữ gần 3,000 chiến hữu của chúng ta thuộc Khu 11 Chiến Thuật. Đầu năm 1977, Đinh Trọng Phúc có tên trong danh sách 1,000 tù binh mạnh khỏe tại Ái Tử mà Cộng Sản tuyển để đưa ra miền núi Thanh Hóa, phá rừng, làm thủy lợi cho địa phương này. Sau hai năm ở Thanh Hóa, năm 1979, ông được chuyển vào Bình Điền, một trại tù về phía Nam thành phố Huế.



hình tái tạo và lắp ghép tượng trưng
Tháng 8-1980, Đinh Trọng Phúc ra tù và trở về nhà cha mẹ, vì trước đó vào mùa hè năm 1972 , gia đình ông đã vào di dân lập ấp tại Bình Tuy. Ở đây, chỉ có một nghề duy nhất dành cho người tù cải tạo trở về là đốt rừng làm rẫy, trồng bắp, trồng sắn, đi củi, làm than (anh hùng mạt vận lên rừng đốt than). Trong hoàn cảnh ấy, Đinh Trọng Phúc gặp lại một người bạn gái ngày xưa ngồi chung lớp, và hai người đi đến thành hôn năm 1983, gầy dựng một gia đình, sinh hạ được năm người con, nghèo khổ, vất vả và cho tới ngày bỏ quê hương lầm than ra đi.

  Ở vùng kinh tế mới, xa đô thị, Đinh Trọng Phúc trong nhiều năm không hay biết gì về chương trình tỵ nạn dành cho các cựu tù nhân chính trị, và một phần do sự bưng bít của chính quyền địa phương, mãi đến tháng 8 năm 1995, gia đình Đinh Trọng Phúc mới đến định cư tại San José, Hoa Kỳ theo danh sách H.25. Mang theo một đàn con nhỏ mà cháu lớn chỉ mới 11 tuổi, gia đình ông phải nhờ vào trợ cấp của chính phủ, cùng lúc Đinh Trọng Phúc xin vào làm trong một hãng điện tử. Năm 2003, Phúc nghĩ đến việc phải đi học trong thời gian còn hưởng trợ cấp, ông vào College được hai năm và muốn theo học ngành Social Science .
                                  con trai Graduated Master Degree truong dai hoc Stanford University 2011
Sau một thời gian khá dài đói khổ nơi vùng kinh tế mới, được dịnh cư tại Mỹ, năm 1995 vợ chồng Đinh Trọng Phúc với 5 đứa con được Hoa kỳ cưu mang qua đây, nay tất cả 5 đứa con đều học hành thành công, các cháu đã vào được các đại học Harvard, Stanford và UC Davis  . Phúc luôn mang ơn nước Mỹ và cộng đồng người VN tỵ nạn CS nhất là hội Đồng Huơng Quảng trị luôn khuyến khích và tặng phần thuởng khuyến học cho các cháu hàng năm.

  Phúc cũng không quên công lao của vợ đã hi sinh cho gia dinh gần 20 năm chịu khó làm nội trợ trong nhà chăm sóc miếng ăn giấc ngủ cùng sự học hành cho con cái. Riêng Phúc năm nay 61 tuổi nhưng vẫn quyết đi tìm công việc thích hợp với ngành học của mình.


 Ông thuộc lớp trẻ vào trận khi mới hai mươi tuổi, phục vụ cho đất nước chưa tới hai năm thì bị bắt làm tù binh, đã qua 5 năm tù khổ sai và 15 năm sống cuộc đời một người dân bị bỏ quên giữa vùng đất cằn cỗi. Gia đình Đinh Trọng Phúc được nước Mỹ cứu vớt, mang tới đây, trong một miền đất hứa để ông làm lại cuộc đời, nhìn thấy các con đang khôn lớn, sống no đủ, được học hành tử tế . Và riêng ông, ông đang trở lại trường học, sau khi đã trải qua những năm tháng chiến tranh, tù đày và những ngày cơ cực, vất vả; mùa thu 2013 ông tốt nghiệp cử nhân Khoa Học Xã Hội (Social Science) tại Đại Học San Jose State California.

Chúng ta hy vọng gặp lại Đinh Trọng Phúc trong tương lai, một Đinh Trọng Phúc thành đạt, biết cống hiến, nhờ vào những ngày kinh nghiệm gian nan trong quá khứ.

2015-02-23 19:34 GMT-08:00 huyphuong le <huyphuong37@gmail.com>:

 nhà văn Huy Phương và Đinh trọng Phúc ngày ra mắt sách tại Khu Hội CTNCT San Jose 2014

Tuesday, February 24, 2015

HAI LÚA HỨNG QUÁ LIỀN XUẤT KHẨU THÀNH THƠ rằng...


ĐỐT PHÁO NĂM NI HAI LÚA HỨNG QUÁ LIỀN XUẤT KHẨU THÀNH THƠ rằng...


PHÁO ĐỎ NGÀY XUÂN RỀN VANG XÓM
MAI VÀNG DỊP TẾT NỞ TRÀN SÂN 

ha ha ha 


Sunday, February 22, 2015

GRAND CENTURY MONG 4 TET AT MUI



cung giao thua

dot phao mong 4 tet at mui 
 

================================================
https://plus.google.com/photos/114014128331615729938/albums/6118855914192760977?banner=pwa

========================================== 
hinh anh tai Viet Nam ngay mong 4 tet At Mui 2015














Tuesday, February 17, 2015

Friday, February 6, 2015

QUẢNG TRỊ XA XƯA --HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ



Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng
Như nhớ thương ai chùng tơ lòng  [lyrics]


hình đầu con ĐƯỜNG NGỰ XƯA nay đã bít lối
================
  bai` ni  viet xin 
gữi về bà con Phường Đệ Tứ QT xa xưa... ĐHL

 (hinh Dinh thi Hiep-2012)
  CON ĐƯỜNG NGỰ là đường nào?Nó bắt đầu từ đường Lê v Duyệt rẽ thẳng góc đâm về huớng An Tiêm .  Khởi đầu là cái quán của mạ tôi . Cái quán trước đường Cửa Hậu là cái quán nhỏ từ đời mệ ngoại sang qua lại cho mạ
tôi bán ở đây . Quán sát cái giếng nằm lọt vào đất ông Xạ Lịch tức là anh chú bác với mệ ngoại tôi . Quán nhỏ mà đắt khách vì trong xóm cần gì là có ngay . Từ cái kẹo, chai bia , ly rượu, kim chỉ , giấy tiền vàng bạc , vở sách bút chì ...thuốc hút , đá lạnh nước chanh , mỳ xíu ban sáng ...tôi kể không hết .  Quán trước cửa Lao Xá nên hay có lính tráng ra mua . Những lần thăm nuôi tù nhân trong Thành quán cũng bán được một mớ . ..
Chiều chiều ,
tôi lại nhớ chú Vân (ba của Bốn) đi lái xe về là ghé quán uống 1 , 2 ly rượu thuốc trước khi vô nhà . Nhà Chú thím Vân ở xa sau xóm nơi ngó ra cánh đồng lúa An Tiêm và hạnh Hoa . Nhà chú ở một bên đường Ngự , đối diện với nhà Ông Lâm tức là ba chú Tùng và chị Dao ...
 Sau lưng là trường ấp tân Sinh được xây một dãy dài .
XÓm cửa Hậu càng lúc càng đông . Đồng bào tản cư tránh chiến tranh , vợ con lính càng lên nhiều và xây liên tục nối xa tận ngoài đồng kể không hết .
Sau trước 1967 có thêm Ty Chiêu Hồi đóng gần nhà Ông DUyến , chị Đoàn , chị Liễu nên càng vui thêm .
Giờ muốn hình dung lại xóm Mình xin  bà con vô lại bài HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ CỦA DHL . .......

                                        ***************
  TRÊN TRANG BLOG  tôi viết đến đây chắc bạn đọc ít ai biết. Đó là con đường gắn liền với tôi lúc sinh ra lớn dần lên một thời niên thiếu trước Cửa Lao Xá mà nay đã thực sự mất tên, và bị lấp mất bởi nhà cửa người ta xây lên trên. Đã thế con đường Lê văn Duyệt cũng vô cớ bị xóa tên. THeo sử thì tả quân Lê văn Duyệt cũng là một võ tướng thời xưa công tội là chuyện của nhà Nguyễn , đến đời Thiệu Trị cũng được phục danh và cái Lăng Ông to lớn ai ở Sài Gòn mà chẳng ghé một lần trong đời.
Đường Phan đình Phùng đã có trong lịch sử thành phố QT xa xưa ròi, việc tréo ngoe chồng lên con đường Lê v Duyệt thì không hay chút nào. 

hình người viết chụp cho cậu Võ Cư năm 1969, ông đang đứng chính ngả ba Lê văn Duyệt và lối vô Cổng Thành Cửa Hậu (đã bị lấp sau 1967)- ngó thẳng ra con ĐƯỜNG NGỰ--trên cổng thành phía cánh phải  chúng ta thấy có một mái che tồn nhô lên , mấy chú bảo an đêm nào cũng gác đó , lâu lâu đánh kẽng đổi gác ...
 

Bây giờ tôi lại kể về con ĐƯỜNG NGỰ. Con đường này chính ngay Cửa Hậu ngó ra thẳng về An Tiêm. Lúc tôi còn nhỏ, mệ tôi thuờng kể là con đường vua Ngự nên gọi là thế nhưng trong nhà Ngoại tôi không biết vua nào. Chẳng qua là truyền miệng cho nhau. Cho đến gần đây, ông Nguyễn lý Tưởng có giải thích thêm thời vua Hàm Nghi chạy ra Tân SỞ 1884 đặt tên để ghi nhớ vua Hàm Nghi khi thất thủ kinh thành 1884 có di chuyển qua đây.  Dân quân ở đây đắp thành một con đường đất lớn để quan quân di chuyển. Như vậy về thời gian cho đến 1972 tôi và y là chứng nhân cho con đường lịch sử hơn cả trăm năm..

   Ngày đó, bắt đầu con đường này là cái giếng lớn được xây từ thời Pháp. Cái giếng này thoạt đầu có xây nắp đậy đàng hoàng , một nửa mở ra hình bán nguyệt. Nước dùng cho cả xóm. Dì tôi, tên Thừa hay Lý  ngày nào cũng đem hai anh em tôi , xin lỗi "ở truồng" kỳ cọ tắm cho cháu. Cậu Bình tôi lứa anh Liệu anh Thăng, khi nào cũng thi gan lấy hai tay chống vào thành giếng thả cả người xuống và đu lên. Đến khi dân đông, giếng cũng không đủ nước , nhất là mùa tháng hạ phải vét. Mùa khác khi nước sâu , thả móc tìm gàu bị đứt lại được luôn "gàu người khác " mừng như thể tìm được 'tàu Titanic" bị chìm tôi đem về "làm của" luôn. Cả xóm nước uống phải gánh tận thôn Hạnh Hoa . Nơi đó có cái giếng nước uống trong veo , thơm tho. Nhắc đến nước uống dưới giếng Hạnh Hoa tôi nhớ hình ảnh anh Báu . Anh ở tận xóm ông Đội Lạp (tức là ông thân của anh Tùng anh Dũng và Ngô thị Sáu gần xóm Tống thị Nhạn phía trên), ngày nào cũng đi tận dưới xa gánh nước cho mẹ. Đàn ông con trai mà anh gánh "dẽo queo" ! 

 DHL 1965-  người viết lớn lên từ Con Đường Ngự này

   Cạnh cái giếng là cái quán tạp hóa nhà tôi , tù trong cửa Lao xá hay ghé mua hàng bán cũng đắt. Đây là đầu múi đường Ngự,là nhà của ông Xạ Lịch , bà ngoại tôi kêu là anh con chú bác. Ông xạ Lịch theo công giáo với vợ. Ông có mấy cậu là Lê ái Phương , Lê ái Long , dì Cúc...Nhà ông Lịch thời này tuy không giàu bằng nhà ông Lê ái Thanh, anh của ông Lịch, vì nhà ông Thanh ông thân của cậu Lê ái Minh có xe đò chạy QT- Huế (tên là Thiện Thành) . Cậu Long con ông Lịch tuy là công chức nhưng cũng "tậu" được một chiếc xe Gobel , 'còm măng' từ bên Ý gữi qua ! Tôi còn nhớ , cả xóm đều chạy tới coi chiếc xe mới về được đựng trong một cái thùng gỗ bằng ván thông to lớn. Sau khi dùng 'xà beng' cạy ván ra, chiếc xe GOBEL mới toanh sừng sững dứng ở trong trông thật "hách". Thời gian này xe honda chưa có , ngoài trừ những chiếc mobilette, Lambretta, hay velo solex ...cũ xưa!

Cũng đầu đường Ngự phía bên kia là nhà của chú Huỳnh Chốn thân sinh của Huỳnh Rô, và Huỳnh Toàn,  số nhà là 65 Lê v Duyệt. Nhà của chú Huỳnh Chốn là chủ xe Phước Toàn tên của hai đứa em của Rô. Hình như Huỳnh Rô có đúa em gái nữa thì phải. Trước khi nhà Huỳnh Rô ở, đây là nhà của chú Nguyễn văn Ba , cha của thằng BỐn bạn gần nhất trong xóm của tôi. THời này nhà thằng bạn tôi cũng có xe đò chạy Qt Huế , có cho chú Kỳ thuê làm quán may. Cái quán ngó ra là cái cống thông ra hồ của Thành CỔ  . TÔi nhớ  chú Kỳ rất hoang, ngồi may vậy mà lấy tờ bạc cột một đầu kéo ra giữa con đường nhựa , còn đầu kia tôi còn nhớ buộc vào cái máy may Singer. Sau khi "ngụy trang" sợi chỉ khách đi ngoài đường cúi xuống lượm bị chú Kỳ đạp lẹ cái máy may , sợi chỉ kéo phăng tờ bạc lui làm người khách "tiu nghỉu" , trong quán chú Kỳ và tụi tôi cười sướng cái bụng. Người lượm bạc "trật" chỉ biết cúi đầu đi nhanh , chẳng dám cự nự một lời !Đêm về ngay đầu đường Ngự này, tức là cái cống và cái cột đèn của con đường Lê v Duyệt trước cổng Thành , tụi tôi chơi đá lon ,' hô la manh' với nhau.
  Bắt đầu đi sâu vào là nhà bà ngoại tôi hay nhà tôi lớn lên bên các cậu tôi là Võ Cư ,Bé , Phương , Hoa , Ba , Bình...lớn lên các cậu tôi đi Trường Thiếu sinh Quân hay binh nghiệp khác. Cậu đầu Võ Cư trước là trung đoàn 95 VM , sau này về lại bên Cộng Hòa là công an. Có thời bên VM cho người đàn bà về lại 'móc nôi' nhưng bất thành. 1968 nhà sập một nửa nhà dưới cái nhà ngói trên hư hại ít ỏi. Tôi tuy là đứa cháu ngoại nhưng là thắp huơng khói sớm tối trong nhà ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất sớm từ 1949, sau này bà ngoại tôi lại làm bà vải tận chùa SẮC TỨ bên Ái Tử thỉnh thoảng có việc gì tôi mới qua chở bà về. Đối diện nhà Ngoại tôi tức là bên kia con đuòng là nhà mệ Dịu. Nhà Mệ có hai cây khế , một cây chua một cây ngọt. Cây khế ngọt yếu ớt ít trái hơn. Cây khế chua to lớn rậm rạp phủ một nhánh qua sân nhà Ông Nguyễn trọng Thệ. Nhà mệ Dịu làm nghề thợ may trong nhà . Chú con trai hình như ở xa. O Lài là chị lớn , em o Lài xấp xỉ tuổi tôi. Sau lưng nhà mệ Dịu là nhà O Hoài mẹ chị Huờng , và Hòa cũng xấp xỉ tuổi tôi. Tội nghiệp 2 đúa con trai o Hoài, thằng Gioan thằng Huởng bị VC pháo vô thành , lạc ra ngoài khoảng 1967 chết oan mất thằng Gioan. Theo con đuòng này tiếp nhà mệ Dịu là nhà Ông Thệ
như vừa nói . Ông Thệ là ông thân của các chú Kỳ- Khôi -Tống -Toàn mà Nguyễn trọng Toàn sau này là chồng của chị Thí . Ông Thệ có cái tính rất sạch. Sáng chiều chi cũng thấy ông cầm cái chủi cán dài quét quét trước cươi(sân) rồi. Ông Thệ hình như là người Ngô Xá. Rảnh là ông thay áo quần lên phố thăm ông Thầy Thoàn (thân sinh tướng  Hoàng xuân Lãm ). Nhà ông Thệ trước đây mua lại của chú Vọng . chú Vọng hay đi chiếc mobilette chạy lẹt đẹt . Sau này chú VỌng về ở gần nhà mệ Cửu Mình thân mẫu cậu  Hiếu ở kế bên trụ sở phuòng Đệ Tứ - hay gần kiệt xuống nhà bạn Nguyễn Văn và Ng Kiệt 
Sau 1967, nhà này ông Thệ bán cho chú Huỳnh Chốn, ba của Rô. Còn nhà Huỳnh Rô số 65 trước đường thì lại bán cho mẹ và dì tôi . Nhưng nhà tôi số 65 trước đường ở một năm thì bị cháy vì vụ Mậu Thân 1968. Sau đó nhà tôi phải lên thôn Đệ Nhất làm ăn .
  Tiếp tục con đường Ngự, nối tiếp
nhà Ngoại tôi là nhà của bác Hà công Kinh tức là ông thân của Hà thị bích Huờng. Thời tôi còn nhỏ, đây là nhà của ông Lâm , thân sinh của võ sĩ Bách Tùng Lâm; tức chú Tùng lấy tên ba người:  ông Lâm , Bách là anh của chú Tùng. Ông Lâm có võ gia truyền , sau này chú Tùng mới là võ sĩ nổi tiếng. Chú Tùng , chú Bách cở tuổi với hai cậu Võ Phương và Võ Hoa tôi. Một thời 1960 nhà của ông Lâm còn là nhà tranh , có đụn rơm và buị tre . Tôi còn nhớ trong Sài gòn , ra làm một cuốn phim , đóng cảnh thanh niên chiến đấu. Có thể vào thời Ấp chiến Lược thịnh hành. Đêm đó thật vui, có cả anh Nguyễn Bích( anh rễ Mỹ tín , chồng chị Lợi ) cùng với các thanh niên trong thôn được dựng cảnh thanh niên chiến đấu , bận đồ đen cầm đuốc lập lòe chạy cạnh đống rơm trước máy quay phim thật vui. Sau này nhà ông Lâm bán lại cho nhà  Hà thị bích Huờng. Ba của Huờng là bác Kinh làm kiều lộ hay là công chánh tỉnh QT. Bên kia nhà ông Thệ thì bán cho nhà chú Huỳnh Chốn. Cả hai ông Lâm và ông Thệ không đi đâu xa mà ra mua đất phía sau ruộng tức là tiếp tục con đường Ngự để lập vườn vui thú điền viên.
  Con Đường Ngự dài lắm ! Nó đâm thẳng về tận An Tiêm. Như người viết đã trình bày, lúc sinh ra thì đã thấy nó rồi . Thời trước 1963, từ đường Lê v Duyệt đi ra khỏi nhà ông Lâm là gần hết nhà rồi, hai bên toàn ruộng.  Hồi đó, mùa mới cấy lúa tôi hay cùng chị Dao con Ông Lâm ra bắt cua đồng tức con đam , ốc bưu (bươu) đi vài giờ là có cả gàu đầy. 


  Mùa khô thì cậu cháu chúng tôi ra cánh đồng khô gốc rạ thả diều chơi. Diều các cậu tôi chơi là diều 'người lớn'. Nó có hai cánh rộng, mang cả 3 ống sáo trên lưng. Cột dây lèo rất khó. Cánh ruộng phải rộng để căng dây , đợi gió là phóng lên . Con diều không phải có cái đuôi như con nít chơi, mà nó đựng gió bằng hai cánh rộng và bung lên trời. Dây diều bằng dây gai chắc và to mua từng cuộn lớn trên tiệm Ông Kỳ trên phố mới có . TÔi không cầm dây nỗi,  người lớn mạnh mới cầm nỗi cho con diều lên cao hơn trăm mét . Mỗi lần đứt dây, nó bay về tận ruộng Hạnh hoa dưới xa.Cậu Võ đình Cư tôi mang mấy ống sáo diều từ ngoài Gio Linh vào , những cái sáo này nghe cậu tôi kể lại do môt tay nghề làm sáo diều làm cho . Tiện thể tôi kể luôn hình dáng nó là cái ống lồ ô vừa, vót sạch cật , hai đầu có bít lại , mỗi đầu có đường rãnh thông gió theo kiểu lưỡi gà . Ba ống sáo , hết cật thì nhẹ gắn chồng lên nhau cùng được nằm trên lưng con diều lớn . Lên không trung gió hút vào miệng phễu hai đầu sáo , thế là tạo thành âm thanh kêu "o..o " mãi không thôi .

  TÔi  lại lan man nữa ! tiếp theo nhà của Hà thị bích Huờng là nhà ông Nguyễn tri Duyến. Ông Duyến là ông thân của chị Đoàn, chị Liễu và đúa em trai cùng một em gái nữa. Nhà chị Liễu có hai con chó trắng và đen làm tôi khi nào đi ngang cũng "ngán". Con chó đen nuôi sau to lớn hơn , sủa vang nhưng không "độc" bằng con chó trắng. Con chó trắng chờ tụi tôi đi ngang qua là im lặng chạy vụt ra không sủa tiếng nào để cho mình đề phòng mới đáng sợ. Phía bên tê đường , sau cái nhà ngói của Rô là nhà của chú Phan Hưu cũng cảnh sát như cậu Cư tôi. Đất nhà chú Hưu đang ở là cái hồ rộng quá đến sau nương của nhà bác Dô bên xóm kia. Phía bên kia hồ thì xe kéo của MACV từ trường NH về đổ rác. Phía cạnh hồ sát con đường Ngự này thì người ta lấy đất cày đổ thêm tạm làm cái nền cho nhà chú Hưu. Trước khi có nhà Chú, ngang đây có bụi tre càn không cao không rậm nhưng mỗi khi trời tối có việc đi sau xóm về nhà ngang đây tôi đều 'ngán' vì sợ "ma". Nhắc lại bụi tre này, tôi lại nhớ Mệ Thuần tức là mẹ của ông Thuần (ba o Đông phật tử cưng của thầy Thích chánh Trực) mệ mắc bệnh lẫn (sau này gọi là Enzheimer) đêm đêm mệ cứ cầm cái đèn dầu lò mò đi ra tận bụi tre này . THời này tôi và mấy đứa bạn cứ cho là mệ bị "ma nhập " . Trước kia tôi hay câu cặm ở cái hồ này. Những buị tre gần hồ chiều chiều có tiếng con chim chài màu xanh đậu chờ mồi. Đất đai phủ dần hồ thay vào đó là nền nhà chú Hưu Trong xóm chỉ có nhà chú Hưu là khổ nhất. Vợ chú sinh xong đứa trai cuối thì thím bị tâm thần. Cúc là con gái đầu , ngang tuổi tôi , thay mặt mẹ tảo tần phụ ba nuôi bầy em. Trưa hè, lúc lúc tôi lại nghe tiếng thím nói và la mắng những gì không hiểu nỗi. Tuy vậy thím không làm phiền ai , chỉ cái bệnh là nói những lòi độc thoại đầy vẻ bất mãn. Hai đứa trai đầu của chú Trung và Phùng hay bên phía bích Huờng mấy em trai- tôi xin lỗi- hồi này đặt cái tên là... "Chó Nậy... Chó Con". Nhà chú Chốn, thì có Cu Rô...thời này mấy đứa con nít hay có cái tên "cu ..." nằm đầu mới vui. Tỷ như em trai thằng Nguyễn v Bốn, bạn tôi có thằng "cu Đen" vậy ! gọi tục danh , tên "cu "
      -Ê mi đi mô rứa Cu...?

 Riết hồi tôi quên luôn cái tên trên giấy tờ luôn ! thưa bạn đọc...
 Mà tôi không biết sao trong xóm tôi lại nhiều "tên Cu " lắm thế. 
 Thành Cỗ còn đâu trơ vách đá
lối xưa ngơ ngác dọ lối về ?
 
(hinh Dinh thi Hiep-2012)
  Trước hiên nhà ngoại tôi sau 1968 có một bàn ping pong khá lớn . Cho thuê giờ kiếm thêm "mắm muối". Khách trong xóm ngoài các bậc cha chú như chú Hưu ,đánh rất hay là đối thủ với cậu Cư tôi. Đa phần là khách con nít như mấy "thằng cu" tôi vừa kể trên . Giờ hỏi lại, chẳng hẳn mấy đứa em này...không quên cái bàn ping- pong đó.
Tên tôi thật may, ngoài cái chữ "sù sựa" do chú Trương Đá đặt cho tôi vào năm 1960, thoát cái nạn tên là "Cu Phúc" , tôi không biết vì sao nữa? Tại sao mà chú Trương Đá đặt tôi cái tên "sù sựa"? vào khoảng 1960 lúc mẹ tôi cho em gái tôi là Đinh thị Hiệp bú , chú Đá có tới nhà thăm cậu Hoa tôi và thấy Đinh thị Hiệp khoảng chưa đầy năm tuổi đang bị ngợp sữa. "cái chi rứa phúc ? " chú Đá hỏi . Tôi lúc nhỏ nói chớt nổi tiếng trong xóm vì hai cái răng cửa bị sún, trả lời lắp bắp , "dạ ...cái sù sựa" tức là sữa ! Từ đó chú Trương Đá đặt cái biệt danh này cho tôi. Suốt thòi kỳ "sún răng" này mấy thằg bạn như Trương SỪng, Trần Tài ,nhất là Nguyễn văn BỐn(còn gọi là thằng Vạy) gọi riết tên tôi là "sù sựa " đến nỗi tụi nó quên mất tên tôi luôn . Sau tôi cũng quen, cứ cho đó là tên mình .
 Tiếp theo nhà chú Phan Hưu là nhà ông Phương có người con trai đi lính không quân . Anh hay lái nguyên bộ đồ bay ghé tạt thăm ông bà.  Ông Bà Phương có chị con gái đi nữ tu nhà dòng sau lại về.  Chị ấy trắng trẻo đẹp gái và quá hiền lành . Kế là nhà vườn mới của ông Thệ( sau khi bán nhà cũ cho nhà Huỳnh Rô, ông Thệ xây nhà mới ở lô đất mới này). Sân trước trồng mấy cây trứng gà , ông không bỏ thói quen quét cái sân đổ bằng đất cày ngoài ruộng gánh vô "láng xì cón " . Cũng là cái chỗi cán dài , bộ Bà Ba trắng, và cái dáng của ông. Tôi rất thân với nhà Ông, cứ ra nhà ông chơi. Sáng sáng là ông dậy sớm chế ly cà phê sữa rồi. Tôi còn nhớ như in ba ông - ông Thệ, ông Kinh cùng cậu Cư tôi sao mà mê "tài bàn " tức là tổ tôm đến thế.  Khi nhà này, mai nhà khác ... cái thú vui của ba người là tài bàn .  Có khi ba ông đánh cho đến sáng mới về. 
  Từ lúc có phong trào "di dân" phía ruộng. Có nghĩa người ta bán mặt tiền ngoài đường Lê v Duyệt ra tậu đất ngoài này. Cái ranh giới cuối cùng mở rộng ra ; ví dụ phía nhà ông Nguyễn tri Duyến thì có themTy Chiêu Hồi thành lập. Lịch sử
Trung Tâm   chiêu Hồi phải trước 1967 vì sao tôi biết rõ? Nhưng giữa Trung tâm chiêu Hồi và nhà Ông Duyến, có hai nhà lên ngụ cư tạm thời nên đấp đổi đất đai tạm thời làm mái tranh tôn qua ngày tháng. Đó có nhà o Hảo cũng là quả phụ hình như trong nhà có đứa bé tật nguyền chỉ nằm bất động không đi đứng được rất khổ. Những mái nhà này nền thấp nên mỗi khi nước lụt về là tràn ngập gần nửa nhà.
 Năm 1967 là năm cổng Thành Cửa Hậu bị đánh để giải thoát tù chính trị . Phía 'bên kia' cũng giả dạng "chiêu hồi ", xong hay ra chơi phía quán truóc đường nhắm địa thế cổng thành và sau đêm đánh xong họ cũng "biến mất "? Hồi này tôi quen một anh lính chính quy người Hà Nội tên Sơn , đẹp trai , giọng Hà Nội rất hay. Sơn hay la cà từ ty Chiêu Hồi qua chơi nhà ngoại tôi , vào phòng học tôi ở mái sau.  Thấy tôi chăm học , Sơn rất thích. Anh còn mở bóp lấy tấm ảnh kỷ niệm một quán nuóc ơ Hà Nội trước ngày anh đi lính vô nam và sau đó "chiêu hồi". Sau khi cổng lao xá Cửa Hậu bị đánh (1967) , Sơn ,người bạn chiêu hồi mới quen cũng biến luôn? Hồi này còn có mấy anh CHiêu Hồi lính chính quy khác nữa mà tôi quên tên mất. Lính Mỹ có công nhiều trong việc xây dựng Trung tâm Chiêu hồi này . Xe chở đất liên tục ngày tháng để lấp đầy vạt ruộng rộng thì phải biết là bao nhiều thuớc khối đất chở từ xa về. Xe Mỹ chạy ra vô suốt ngày , đến nỗi tôi học được vài ba tiếng Anh cũng đề đầu đường vô, cạnh cái cột đèn dòng chữ trên tấm giấy carton "Children, slow down" , tôi không biết  thêm chữ please cho lịch sự như bây giờ .  Mấy ông Mỹ lái xe chở đất xong đi ra ngo ngó vào tấm bảng ? !
  Người Mỹ còn đem về ty Chiêu Hồi này ban nhạc hợp tấu giúp vui cho mấy anh VC. Bữa đó, cả xóm chạy ra nghe đội hòa nhạc Mỹ hòa tấu bản "ĐÊM ĐÔNG" nghe hay đáo để. Cậu Võ Hoa tôi lò dò lấy cái máy Cassette ra thu tiếng, làm như là phóng viên , tôi không nhớ có thu được không?
  Từ sau thời gian thành lập ty Chiêu Hồi là phong trào xây nhà ra xa hơn nữa, hai bên con Đường Ngự. Căn bản những người cố cựu trước đường ra "lập nghiệp" ngoài này như nhà ông Thê, nhà Ông Nguyễn v Ba tức là ông thân thằng bạn tôi Nguyễn văn Bốn. Nhà ông Lâm tức là võ sĩ Bách tùng Lâm , nhà chú Vân lái xe trácion QT- Huế ,,, còn thêm người dưới làng vì tình trạng chiến tranh lên đây lấn ruộng ở hai bên con đường thật nhiều. 

 chủ những chiếc xe chở khách hiệu RENAULT giống trong hình trong xóm tôi gồm nhà Chú Thanh, chú Chốn, Chú Ba, ông Khóa Thanh ...

Nhưng tôi phải nhắc đến nhà chú Xứng ỡ kế nhà ông Thệ . Nhà chú Xứng mới ở sau này. Có cái tôi nhớ là chú làm nghề cắt dép bằng lốp xe hơi mà đầu tiên trong đời tôi thấy. Chú làm nghể dép lốp này bán trên chợ Tỉnh . Tuy là cắt dép lốp , nhưng không có hình dáng dép lốp như bộ đội sau này, mà hình dép nó đẹp hơn, tuy cũng có những quai dép bằng ruột xe. Hết nhà chú Xứng làm nghề guốc dép mới tới nhà chú Nguyễn văn Ba tức là ba thằng Bốn bạn tôi , có nhắc trước ở phần trên . Chú Ba bán căn nhà 65 Lê văn Duyệt ngoài đường cho chú Huỳnh Chốn xong ra đây vừa có đất xây cái nhà ngói "to đùng" vừa có chỗ đậu xe và còn dư đất xây thêm nhà trên nữa. Đất đai tại sao mà rẻ? Thời này có phong trào di dân lập nghiệp trong Long Khánh . KHông phải di dân lập ấp 1973 đâu , thưa bạn đọc. Phong trào này có từ lâu. Nhà cậu tôi cũng treo bảng bán , may mà không ai mua. Nhưng cũng vì lưu luyến nên chần chừ. Do đó vì phong trào vô nam này mà đất ngoài ruộng này rẻ như bèo. THời buổi chiến tranh ai ở càng gần đường phố thì cái bụng lai yên tâm hơn. Kế cái "gia trang " của thằng Bốn là nhà của ông Lâm , thấn sinh chú Tùng ,tức là võ sĩ Bách Tùng Lâm như tôi vừa nói đoạn trên. Ông Lâm bán nhà cạnh nhà cậu tôi cho ba mẹ Hà thị Bích Huờng xong thì ra đồng. Cũng nhà gỗ nhà tranh và làm ruộng thôi. Nhà ông Lâm hay gọi cho đúng là nhà chú Tùng(làm trưởng nhóm lính gì của Mỹ gọi là xi ti gì đó?)có cái đụn rơm và mấy cây mít , um tùm cái ao rau muống. 
 chú Vân tài xế lái thuê xe tac xi  chạy Huế Quảng trị ,xe này chở 12 người khách là chật cứng

Ngó qua đường Ngự là nhà chú Vân ba của Nguyễn thị Ba , Nguyễn thị Bốn , có một "thằng Cu " nữa hay em trai mà tôi hay gọi là Cu Vân. Giấy tờ là Quyền nhưng tôi có khi nào nghe đâu, cứ con trai là "cu" xong lắp thêm tên cha là "yên chuyện". Cái lối gọi này như một cái "luật bất thành văn " tự nhiên cho tất cả bà con trong thôn xóm. Chú Vân lái xe tắc xi thuê cho chủ , nghèo hơn . Đi về là chú không quên ghé quán mạ tôi đầu đường NGự uống một hai cốc rượu thuốc mới vô nhà. Chú làm tài xế cho người ta nên nghèo. Cái nền nhà xây xong , chỉ trơ mấy hàng táp lô năm này qua năm khác. Cũng phía này kế nhà chú là dảy trường ấp tân sinh khá dài gồm mấy lớp. QUa lại bên này đường là nhà chú Thí em rễ Chú BA. Lạ là bà nội của thằng Bốn tức mẹ của chú Ba lại thích ở với o Gái vợ chú Thí thôi. Chú Thí cũng là tài xế lái thuê nên nghèo hơn nhiều. Sát nhà chú Thí là nhà chú Ngụng làm lính trong thành. Nhà chú cũng lên ngụ cư sau này. Tôi nhớ chú Ngụng là nhớ chiếc xe Dodge Cartge khi nào chú về nhà cũng kéo một cái xe rơ -móc (remorque) đầy nước về cho nhà xài , khỏi gánh. Nhà chú Ngụng ở đằng trước , phía sau là một cái xóm  dưới các làng mới lên đây tạm cư,  người ở chen chúc.  Vì chiến tranh mà họ tạm cư lên đây. Ruộng vườn bỏ lại dưới làng , ăn theo đồng lương "lính tráng" chắc là khó khăn nhiều.  Phía cạnh xóm này là bãi tha ma lâu đời tiếp giáp với hai thôn CỔ Thành và Hạnh Hoa. Hồi này có làng Cổ Thành gần Trí Bưu và Hạnh Hoa còn Thành Cổ người ta còn gọi là Thành chứ không phải Cổ Thành như bây giờ hay gọi. Ví dụ ngày đó người dân hay nói ...lính trong Thành , có pháo kích trong Thành , khu gia binh trong Thành , Tiểu Khu sau này đóng trong Thành...
   Ra lại con đường Ngự, tiếp tuc bên phải là cái vườn ông bà Tám. Cái vườn rất rộng của bác Tám tức là ông bà thân của chị nguyễn thị Hoa , Nguyễn v Lành , Nguyễn thị Thêm (Quỳnh Ni sau này). Nhà bác Tám tôi nhớ mang máng lúc trước bán tiệm tạp hóa duói Góc Bầu gần tiệm Bác Kỳ . Tiệm bà Kỳ sát bên nhà chú Tịnh( sau này bút danh là Trịnh duy Nhượng ), bạn cậu Võ Hoa( sau này bút danh là Trần giã Viên . Sau này bác Támcũng theo phong trào "di dân" ra con đường Ngự này "khai hoang lập ấp ". Cái vườn cuối cùng trước khi chạy 1972 mới đáng nói vì bác Tám ông đã tạo dựng một vườn ổi xá lị rộng mênh mông, trước cửa ngõ là cái quán bán lẻ cho xóm kiếm thêm lợi tức trong nhà.
  Đối với vườn bác Tám là xóm nhà ngụ cư cuối cùng cả chục gia đình từ duói làng lên vì chiến tranh lên tỉnh. Là hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được cho đến cái mút thời gian 1972
Con đường NGỰ CÒN DÀI lắm , nó phải chạy ra xa nửa gần giáp với bờ sông Vĩnh Định giáp với thôn An Tiêm. Một thời tuổi nhỏ tôi có những "chuyền phiêu lưu" đi theo con đường đất rộng cao như con đê này về các vườn dưa gần An Tiêm kiếm rế . Tôi không quên được những cây mắm xôi , những bụi chứa dại và mấy con châu chấu voi to lớn. Hai bên là cánh ruộng loáng nước mùa cấy , cho đến lúc nước lụt với cảnh nước đục ngầu mêng mông , hay mùa khô cánh đồng trơ gốc rạ...
Tuổi dại lớn lên bên con ĐƯỜNG NGỰ cùng tình bà con làng xóm , tôi cứ nhớ mãi suốt đời. 

                                                      bông cỏ hôi
  Nỗi nhớ da diết đó vẫn mãi theo tôi cho đến hôm nay, nhất là những ngày hè nghỉ học tôi hay lang thang đi chơi dọc theo con con đường thân quen đó. Tôi không quên  những khóm hoa ngũ sắc mọc dại  bên đường;  lạ thật, qua xứ người , mỗi khi ngắm những chậu hoa ngũ sắc người ta bày bán trong mấy tiệm Home Depot  năng nhắc tôi nhớ về '
đường xưa lối cũ' , cái thời 'đuổi hoa bắt bướm' ...

bông ngũ sắc
Rồi tất cả cùng chung số phận, cái tên đường Lê văn Duyệt  cùng thành phố đó mất rồi . Cũng như con ĐƯỜNG NGỰ, nó theo nhau về miền dĩ vãng. Nỗi cảm hoài u uẩn cho những gì thuộc chuyện xưa tích cũ đến khi viết lại cho thế hệ mai sau là góp nhặt cát đá dựng xây lại hình ảnh xa xưa giờ đã mất.
 

Đinh hoa Lư 17/3/2014
edition 4/2/2015  



Thursday, February 5, 2015

Lời tiên đoán ứng với vị vua đầu thời nhà Đinh

trich bao

http://www.baomoi.com/Loi-tien-doan-ung-voi-vi-vua-dau-thoi-nha-Dinh/137/15340874.epi

Đinh Bộ Lĩnh (924 - 979) là con của Thứ sử Đinh Công Trứ, người động Hoa Lư, Ninh Bình. Ông có công thống nhất 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt, khai mở triều Đinh, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Xung quanh vương nghiệp của ông cũng có những lời sấm ký, thơ ca, giai thoại dự đoán việc ông lên ngôi cũng như hậu vận ngắn ngủi của nhà Đinh! Góp nhặt từ sách vở chúng tôi xin ghi lại một số tư liệu điển hình.

1. Đại Việt sử ký tiền biên chép: “Khi vua còn hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua đang ngủ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho xem. Sư than rằng: Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không được dài.
Tượng Đinh Bộ Lĩnh ở điện thờ tại Hoa Lư (Nguồn Internet)
Duyên gặp gỡ giữa Đinh Bộ Lĩnh với sư trụ trì chùa Giao Thủy (chùa Cổ Lễ, Nam Định nay) được Thiên Nam ngữ lục khái lược rõ hơn. Theo đó, Đinh Bộ Lĩnh vì mâu thuẫn với chú, bị đuổi đánh qua sông Đàm Gia được rồng vàng cứu giá. Lúc ấy, thế còn yếu, chàng đành từ biệt bạn bè, lánh mình làm nghề chài lưới kiếm sống chờ đợi thời cơ:
Mệnh trời đã định nẻo xưa/ Ngọc khuê dành để đợi chờ đế vương.
Thường thường có khí hào quang/ Đêm đêm sáng dậy bên giang trùng trùng.
Bộ Lĩnh hỏi chúng ngư ông/ “Ấy gì mà sáng dưới sông đấy rầy?”
Chúng ngư bèn bảo rằng bây: Sáng ở sông này đã mười hai năm.
Vậy là khi Đinh Bộ Lĩnh ngược xuôi theo sông đánh cá mưu sinh, bởi có duyên tiền định nên được biết tới ánh hào quang phát dưới sông đã mười hai năm. Sau này, như có mệnh báo trước, nghiệp đế của ông cũng kéo dài 12 năm thì dứt chốn nợ trần. Và lại nói, được ngư dân quanh vùng kể cho biết về ánh sáng lạ nơi đáy sông, Đinh Bộ Lĩnh ngờ rằng đó là vật quý, 12 năm ngọc nằm dưới đáy sông không ai biết mà lấy được. Vậy mà đến Đinh Bộ Lĩnh, ông tìm được viên ngọc quý ấy khi quét lưới, như Việt sử diễn âm đời Mạc viết:
Được một báu vàng đem lên/ Đánh phải đầu thuyền khuyết một góc đi.
Chính vì ngọc quý “khuyết một góc” đã trở thành điềm trời định dành cho hậu vận sau này của vị vua tương lai. Bắt được ngọc quý, chàng ngư phủ họ Đinh vì trời tối, mưa to gió lớn, mà “lầm đường lạc nẻo khôn thông lối về”. May sao nghe tiếng chuông chùa ghé vào tá túc qua đêm. Sư trụ trì của chùa vốn trước kia làm đạo sĩ tinh thông tướng số, biết nhìn người. Đêm ấy, viên ngọc quý nằm trong giỏ cá “Bỗng sao sáng khắp hòa chiền. Thầy ngờ Phật giáng thầy liền cúng hương”. Câu chuyện về viên ngọc mỗi lúc lại một tỏ:
Sáng ngày thầy hỏi trước sau/ Ngọc khuê nghĩ mới đem hầu thầy coi.
Nhìn đi nhìn lại một thôi/ Giờ lâu thầy mới mở lời nói ra.
“Con ta phúc đức thay là/ Ngày sau làm chúa quốc gia trị đời.
Nghĩ hiềm phúc hậu chẳng dài/ Vắn dài có số tượng trời đã chia.
Về sau, quả nhiên cái số dương cùng của vua Đinh Tiên Hoàng đúng như lời dự đoán của sư thầy về viên ngọc khuyết phần ấy.
2. Theo Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính, Nxb Tẻ, 1998, thì ở động Hoa Lư quê Đinh Bộ Lĩnh có cái đầm rất sâu. Mẹ ông thường vẫn vào trong đầm tắm giặt. Ở đầm có con rái cá to lớn sống lâu đã thành tinh. Một hôm, bà bị con rái cá ấy hãm hiếp mà thụ thai. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, Đinh Bộ Lĩnh được sinh hạ.
Ít lâu sau cha ông Đinh Công Trứ qua đời, con rái cá cũng bị người dân bắt được đem làm thịt, bỏ xương vào một xó. Hay tin ấy bà vội đến, nhặt xương và gói ghém để trên gác bếp, bảo với Đinh Bộ Lĩnh đấy là hài cốt của cha.
Đinh Bộ Lĩnh lớn lên khỏe mạnh, có biệt tài bơi lội. Bấy giờ có một thầy địa lý Tàu sang nước ta xem thế đất. Đến Hoa Lư thầy địa lý thấy một tia sáng màu hồng tựa như dải lụa từ đáy đầm chiếu thẳng lên sao Thiên Mã. Đoán ở dưới đầm có linh vật bèn thuê người lặn xuống xem sao. Đinh Bộ Lĩnh nghe tin liền nhận lời ngay. Khi lặn xuống, chàng thấy con ngựa đá đứng dưới đáy đầm, bèn trở lên báo lại. Thầy địa lý bảo chàng lặn xuống mang theo nắm cỏ bỏ vào miệng ngựa, quả nhiên nó há miệng ngậm lấy. Thầy địa lý nói:
- Dưới đầm ắt có ngôi huyệt quý.
Rồi đưa vàng bạc trả cho Đinh Bộ Lĩnh, lại dặn:
- Nay tạm trả chừng này, sau sẽ trả thêm. Ta có việc phải về bản quốc mấy tháng, sẽ gặp sau.
Đinh Bộ Lĩnh biết là huyệt quý ấy ở ngay trong miệng con ngựa, bèn về nói chuyện với mẹ, xem mả cha ở đâu, để đem táng vào huyệt ấy. Bà mẹ lấy nắm xương ở gác bếp đưa cho, chàng bèn cầm lấy bọc cỏ non ở bên ngoài lặn xuống chỗ con ngựa. Khi ngựa vừa há miệng liền đút cả vào. Ngôi huyệt quý về tay mẹ con Đinh Bộ Lĩnh. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh sinh ra bạo tợn, các trẻ chăn trâu đều sợ bầu lên làm tướng, bẻ hoa lau làm cờ, chặt tre làm khí giới, đi đánh nhau với trẻ làng khác. Tiếng tăm ông lừng lẫy, xa gần theo về, lại bầu làm trại trưởng của vùng.

Cô đô Hoa Lư gắn liền với công nghiệp của nhà Đinh (Nguồn Internet)
 
Ít lâu sau, thầy địa lý Trung Quốc sang đem hài cốt của tổ tiên định táng vào miệng ngựa. Nhưng tới nơi thấy kẻ lặn thuê cho mình ngày trước đã trở thành bậc có danh tiếng lừng lẫy, biết là huyệt quý đã bị mất, căm giận lắm mới tìm cách trả thù. Hắn tìm đến Đinh Bộ Lĩnh, giả thác nói:
- Ngôi huyệt quý đã về tay ông. Nhưng, ngựa quý mà chưa có kiếm thì chưa toàn bị. Xin biếu ông một số thanh kiếm quý đeo vào cổ ngựa. Từ nay, ông sẽ ngang dọc khắp thiên hạ, kiếm chỉ tới đâu, giặc tan tới đó.
Đinh Bộ Lĩnh không hiểu hết được phong thủy bèn lấy kiếm lặn xuống đầm sâu, đeo vào cổ ngựa đá. Từ đấy đánh đâu được đó, tự xưng là Vạn Thắng Vương, bình định 12 sứ quân và thống nhất giang sơn, mở ra triều Đinh, ở ngôi 12 năm rồi bị sát hại. Người đời cho rằng do Đinh Tiên Hoàng đã mắc mưu thầy địa lý, bởi người xưa có câu: “Mã đầu hữu kiếm đới sát” (đầu ngựa mà có gươm là mang sát khí).
Theo Việt sử siêu linh, câu chuyện sau khi tước bỏ huyền thoại, có thể còn lại điểm đất Hoa Lư có hình con ngựa gọi là “thủy mã huyệt”, sau này mộ vua Đinh đặt trên núi Mã Yên có nghĩa là trên yên ngựa.
3. Lên ngôi cao trong thiên hạ, đến năm Giáp Tuất (974) đời vua Đinh Tiên Hoàng, trong dân gian có bài sấm rằng:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh/ Lê gia xuất thánh minh,
Cạnh đầu đa hoành nhi/ Đạo lộ tuyệt nhân hành,
Thập nhị xưng đại vương/ Thập ác vô nhất liệt,
Thập bát tử đăng tiên/ Kế đô nhập nhị thiên.
Dù câu sấm được cho là xuất hiện ngay trong thời trị vì của Đinh Tiên Hoàng, lại chỉ rõ cả tên kẻ phản nghịch là Đỗ Thích, nhưng vua Đinh vẫn không có biện pháp gì để phòng ngừa dù hậu vận đã được dự báo từ thuở hàn vi. Chính vì thế mà để lại hậu quả lụy đến thân mình.
Tháng 11 năm Kỷ Mão (979), đêm ấy vua Đinh Tiên Hoàng ngự tiệc ở điện với quần thần, uống rượu say quá, nằm ngủ luôn tại bậc thềm của sân điện. Phúc Hầu Hoằng là Đỗ Thích đã có dã tâm từ trước, ra tay giết vua và giết luôn cả Nam Việt Vương Đinh Liễn.
Trước đây, Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu thấy sao rơi vào mồm, cho là điềm lành được làm vua nên mới manh tâm phản loạn, nhân cơ hội này mà giết vua. Lúc vua đã bị hại rồi, Đỗ Thích lẩn vào trong cung, trốn ở dưới máng xối hơn ba ngày. Khát nước quá, Đỗ Thích lấy tay hứng nước mưa uống. Bọn cung nữ thấy vậy mới báo với Định Quốc Công Nguyễn Bặc bắt mà giết đi, nhưng ba hồn bảy vía của Đinh Tiên Hoàng cũng chẳng thể quay trở lại dương thế.
Đối với bậc nhân danh tên tuổi lừng lẫy của họ gắn liền với những chiến công hiển hách, và có lẽ từ đó, hậu thế thêu dệt thêm những chuyện ly kỳ vừa để tôn vinh, vừa để thần thánh hóa những sự kiện trùng hợp tình cờ mà họ chưa giải thích được. Thú vị hơn, những chuyện ly kỳ ấy khéo gợi được tâm lý người nghe, và cứ thế những câu chuyện như vậy truyền nhanh, truyền rộng đến mãi tận ngày sau.

trich bao ngay 5/2/2015

Sunday, February 1, 2015

CÔNG QUẢ ÂM THẦM


Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng (giữa) được đỡ xuống thang khi sau buổi nói chuyện về tôn giáo tại đền thờ Tsuglakhang ở Dharmsala, Ấn Độ, hôm 4 tháng Sáu, 2013. Trong một cuộc họp báo ở Úc, ngài nói rằng người kế vị mình có thể là một phụ nữ. (Hình: AP Photo / Ashwini Bhatia)


trong chánh điện  Gyuto Vajrayana Center! 
San Jose California

    Cái chùa Tây Tạng này xây đã lâu tại vùng tôi ở. Ngôi chùa nằm ngay khúc quanh bên con đường vợ chồng tôi hay đi bộ thể dục hàng ngày. Tiếng là chùa nhưng nó vẫn mang hình dáng ngôi nhà ở bình thuờng ngoại trừ có sân sau và bên hông rộng để chùa làm một dãy nhà kho chứa đựng linh tinh. 


Các vị sư Tây Tạng cũng có lúc đi bộ như chúng tôi. Họ rất trẻ tương tự như vị sư Tây Tạng trong hình tượng trưng này . Tôi không biết họ qua Mỹ từ lúc nào ?

Đặc biệt  lúc đã thành chùa [*] thì chính điện tức nhà trên mang màu sắc khác , đó là màu đỏ gạch như màu áo của mấy vị sư Tây tạng thuòng mặc . Các vị sư Tây Tạng cũng có lúc đi bộ như chúng tôi. Họ rất trẻ. Tôi không biết họ qua Mỹ từ lúc nào ? và nhập cư vào Mỹ dưới diện nào? Có thể theo diện tu học hay cũng có thể tỵ nạn vì bị bách hại tôn giáo. 
các vị sư đang trú ngụ tại chùa này hay thiền viện Tây Tạng Gyuto Vajrayana Center! 

Tôi không có dịp vào chùa Tây Tạng này , nhưng vào dịp rằm khách thập phương , đạo hữu các đoàn tới khá đông , xen kẻ đạo hữu Việt Nam nữa. Điều đặc biệt, chùa này thuờng mang vẻ trầm mặc , yên tĩnh, không bao giờ ồn ào. Và đặc biệt hơn nữa, tôi không nghe tiếng chuông , gỏ mõ theo hệ phái chùa VN.
 

  Một ông Mỹ già hàng xóm,  cứ sáng sớm khi trong chùa chưa ai dậy, ông đã lom khom trước chùa- tỉa lá-  tưới cây- yên lặng ngó trước coi sau . Tôi đã quen mắt với việc làm của ông Mỹ này. Tôi biết công việc này ông  tự nguyện giúp chùa, và hẳn nhiên phần việc trước chùa do ông "quản lý". Dáng ông ốm , cao , hàm râu lởm chởm bạc,  lứa tuổi đã về hưu từ lâu . Ông xăm xoi ngó trước nhìn sau , cọng cỏ thừa ông cắt, cái hoa héo ông xén , dáng đam mê chăm chỉ thiết tha với công việc chùa giao cho ông khi tuổi về chiều. Tôi biết rằng, tuy người Mỹ đa số theo đạo Tin Lành, nhưng hiện nay họ dần dà để ý đến Phật giáo cùng  phép tu tâm của Phật. 

  Người Mỹ có sự thông cảm sâu sắc đến người Tây tạng , Phật giáo Tây Tạng, những người
đang bị bách hại tại đất nước họ. Những ngọn đuóc sống Tây Tạng đang vang tiếng kêu đau thuơng hiện nay tới toàn nhân loại.

  Một ngôi chùa Tây Tạng nơi vùng tôi ở , nơi có ông Mỹ già đang làm công quả với những hành động ông biết là nhỏ nhặt đối với Phật, nhưng tấm lòng thành đối với Phật, một tôn giáo mới ông đã ngộ. Vì rằng, khi
đã phát tâm thành, thì ông âm thầm làm công quả không cần ai hay, ông chẳng nệ hà có ai biết hay không .

  Chiều về , tôi vẫn thấy ông ngồi lom khom nhổ cỏ dại cho chùa. Sáng lại ông lay hoay tước từng bụi hoa đàng trước. chẳng ai màng hỏi thăm ông , và ông chẳng để ý đến ai khi làm công việc nhỏ bé của mình. Tôi liên tưởng những đoàn xe sang trọng đến thăm chùa với những lể vật lỉnh kỉnh cùng so sánh với công đức khiêm nhường của ông Mỹ già trầm lặng mà tôi gặp mọi ngày. 

Chợt tôi nhớ đến câu chuyện trong kinh Phật năm  xưa : có bà lão ăn xin nghèo nàn rất trông gặp Phật . Bà quá nghèo dốc hết gia tài trong túi mới mua được ngọn đèn cúng Phật . Ngọn đèn nhỏ bé bà lão ăn xin đã mua nó với một ước mong duy nhất được trông thấy Phật một lần trong đời cho mãn nguyện thôi. Tâm thành của bà không vụ lợi làm ngọn đèn nhà nghèo của bà sáng mãi !
 

  Xứ Mỹ hôm nay bên ngôi chùa Tây Tạng nhỏ bé, tôi đã thấy một ông già Mỹ âm thầm phát nguyện bồ đề tâm, qua một việc làm đơn sơ nhưng ông kiên trì mãi trong tuổi già xế bóng cho đến một ngày kia ông sẽ về với Phật ;  tôi tin vậy./.

đinh hoa lư
chuyện mắt thấy tai nghe
San Jose 6/6/13


[*] :đúng ra là một thiền viện của các sư Tây Tạng gọi là Gyuto Vajrayana Center! 
source: http://www.yelp.com/biz/gyuto-vajrayana-center-san-jose

CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ...

CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ... Thôi đúng rồi! Ngọn lửa bốc lên từ đằng cái khe nhỏ nơi những thợ săn Tân Thắng...