Hồi còn nhỏ chỉ chừng bốn năm tuổi,tôi còn nhớ khi ấy gia đình tôi định cư ở làng Mỹ Chánh,nhà chỉ cách con sông Ô Lâu đã đi vào huyền thoại thơ ca chỉ mấy chục bước chân,vì ba làm việc ở quận Hải Lăng nên ở Mỹ Chánh cũng tiện cho Ba về thăm vào những ngày cuối tuần,tôi nhớ cứ mỗi lần có giổ ở Truồi là ba tôi chở anh chị em chúng tôi về làng ăn giổ luôn tiện thăm ông bà nội luôn thể,từ Mỹ Chánh theo quốc lộ một xuôi nam đi qua Huế,tính ra cũng chỉ hơn một giờ lái xe,loại xe jeep hai màu trắng xanh mà nhà nước phân về để tiện cho ba đi lại và công tác.
Khi xe dừng lại bên cây vú sửa mà ông tôi trồng mấy năm trước bên cạnh chiếc am nghe nói để thờ vong của bà O chết khi còn trẻ,chúng tôi xuống xe và chạy ùa vào nhà, ông nội đang ngồi trên chiếc sập gổ đã củ,nhìn ra thấy chúng tôi,ông mỉm cười đôn hậu,chúng tôi vòng tay chào ông xong chạy xuống gian nhà ngang dùng làm bếp và cũng là nơi bà nội ngủ hàng đêm, nội ngồi đó, nước da mần quân nhăn nheo,nội ngước lên nhìn chúng tôi mừng rở,đôi mắt nội nhìn với ra phía sau chúng tôi rồi hỏi "chỉ mấy đứa về thôi à, mẹ bây có về không ?"
Thế đó lúc nào nội cũng trông ngóng mẹ tôi,mẹ kể lấy ba ở Huế rồi lập nghiệp luôn trên ấy được mấy năm,thương ông bà nội, bồng bế con về ở với nội,ngày ngày từ sáng tinh mơ nội đã dậy đổ bánh bèo,làm bánh lọc,bánh ít,nấu bánh canh sang bán ở chợ Lộc Điền,còn mẹ tôi với o Mèo nội chuẩn bị cho hai chị em hai ghánh hàng để đi bán dạo trong làng,thương cô gái Huế mỏng manh thang cảnh về làm dâu xứ khổ,ai ai cũng ủng hộ nên mẹ bán rất đắt hàng,xế chiều mẹ và o Mèo hẹn nhau ở ngã ba Bàng Môn,hai chị em tính toán tiền về đưa cho nội,sợ lổ vốn mẹ không dám ăn,o Mèo làm một dĩa đủ loại bánh ép mẹ ăn cho bằng được,o thương và lo cho mẹ,sợ cực khổ không quen rồi sinh bệnh.
Mẹ kể về Truồi làm dâu được bảy tám năm nhưng nội không hề la mắng mẹ một lời,thương mẹ hơn cả con gái,có gì ngon cũng thu dấu để dành cho mẹ,sáng sớm nội dậy rất sớm nấu nướng chuẩn bị cho một ngày buôn bán,mẹ dậy phụ giúp nhưng nội cương quyết không cho,thương mẹ con nhỏ hành cả đêm không ngủ được nên không cho mẹ dậy phụ sợ mẹ vất vả mà sinh bệnh.
Khi ba quyết định xin vào sở cảnh sát trên Huế,mẹ đành bồng con theo chồng,khi ra đi nội buồn và khóc,nội nói tụi tau có hai chút cưng,sao đành đem đi hết,ba mẹ ngậm ngùi để chị Bích ở lại,chỉ bồng theo chị Biên,khi đó chị Bích sáu bảy tuổi,còn chị Biên thì chỉ mới mấy tháng,đang còn bồng ngữa trên tay.
Ở Huế nhưng cứ có dịp là cả gia đình lại về thăm ông bà nội,ông nội nghiêm
và khó tính,trái lại bà nội hiền và xuề xoà,có lẻ vì thế chúng tôi gần gủi với bà nội hơn,buôn bán ngày mấy ghánh hàng ăn nhưng nội vẫn thường xuyên thâm công đổ nợ,mẹ nói nội có tính hay quên,không thể nhớ hết những khoản nợ mà mình đã mua thiếu đến nổi trả rồi trả lại là câu chuyện diễn ra thường xuyên như thế ,đến khi ba và chú Tương đem tiền về trả nợ cho nội mới yên.
Mẹ kể nội là cô gái buôn bán tơ lụa trong Quãng ra Truồi chào hàng rồi gặp ông nội là chàng trai làm nghề thợ may, gặp nhau đem lòng yêu thương chàng trai xứ chè,bà nội quyết định ở lại cùng ông vun xây hạnh phúc,nội còn có một người chị ở Đà Nẵng,nhưng chị em cũng ít khi gặp nhau,năm ất dậu,ba mẹ bồng mấy chị vào nương tựa nhà dì mấy tháng chờ cho qua cơn đói khi Nhật thua trận ở đông dương.
Ngày nội qua đời đám tang tổ chức rất lớn,con cháu đông đủ xum vầy,nhưng bà con bên nội không có ai cả,khi đám tang đưa lên đường quốc lộ một,kiệu tang phải dừng lại tế bốn phương coi như giã biệt dòng họ tổ tiên trước khi mai táng.
Cả đời nội tôi vất vả vì thương con thương cháu,suốt ngày đầu tắt mặt tối chăm lo làm ăn buôn bán,vất vả ngược xuôi, mãi đến bây giờ trên bốn mươi năm rồi từ ngày nội ra đi bóng dáng gầy gò thon nhỏ với khuôn mặt thanh tú của nội vẫn còn in mãi trong tâm trí tôi và những ngày về quê thăm nội,được đắm mình trong dòng sông quê hương ngàn năm xanh mãi.
No comments:
Post a Comment