MỘT VÙNG QUÊ NGHÈO
hồi ký
TẶNG BÀ XÃ TÚY HUỆ
edition
Những đêm mùa câu mực, một vùng biển lấp lánh muôn vàn ánh đèn thắp sáng từ hàng ngàn con thuyền và thúng. Tôi đứng trên đồi cao nhìn về biển - cả một vũ trụ của sao đèn không thể nào đếm xuể.
Đó là ký ức của tôi về biển cùng ngư dân vùng này. Riêng trên các đồi đất cao vùng gia đình tôi sống dành cho nông dân cùng tiều phu những gia đình gắn liền mạch sống với đất rẫy cùng cây rừng . Từ hai bàn tay, cái cuốc cây rìu người dân đã tạo ra vô số luống khoai nương sắn. Rừng xanh dần dần biến mất theo miếng ăn của con người khi đất ruộng hiếm hoi. Thay vào đó các đồi trồng cây hoa màu phụ chạy dần về núi Đất, núi Bể. Rừng còn bị bị san bằng- đốt phá cho những gánh than hay những thớ gỗ xây nhà, dựng cửa. Trẻ con sau những giờ phụ mẹ cha vào rừng nhặt than, trỉa bắp các em cũng có những giờ hạnh phúc học hành với các thầy cô bên cạnh mái trường đổ nát xiêu vẹo có khi loang lỗ dấu đạn chiến tranh.
Vợ tôi và các cô thầy giáo khác từng có cơ hội gần gũi với người dân bên nương khoai rẫy bắp, cùng đói- cùng no với trẻ con vùng kinh tế mới, dấu ấn một thời gọi là bao cấp. Tôi không quên hình ảnh các thầy cô hàng tháng phải đạp xe về tận huyên xếp hàng từ sáng đến chiều chầu chực, mới mua được tiêu chuẩn mỗi người hai lít dầu hỏa cùng vài lạng (trăm gam) thịt heo. Chuyện mới lạ làm sao, vào lúc đó ai cũng 'giành' cho được thịt heo loại "nhiều mỡ"? Sau này mới hay các cô, các thầy ưa mỡ nhiều để rán ra, ăn dần nhiều ngày...
Đời sống thầy cô tuy khổ nhưng dù sao cũng còn khá hơn các em nhỏ nơi vùng này. Có khi các em phải thắp đèn bằng dầu "mù - u" một thứ nhựa cây kiếm được trong rừng. Một thời, dầu hỏa là những thứ gì thuộc loại "hiếm quý" làm gì người dân có cơ hội mua được. Có những chiều về muộn, chạng vạng tối lúc tôi từ rẫy về, nghe tiếng các em học bài "ê a" vọng ra từ các mái tranh leo lét ánh đèn làm lòng tôi xao xuyến. Ánh đèn dầu mù u, le lói chiếu ra từ các mái tranh nghèo cho trẻ em học bài ngày mai tới lớp. Tiếng học bài của các em làm giảm đi phần nỗi hoang sơ nơi vùng thôn dã. Ngày mai các em sẽ tới lớp, dưới mái trường quê rồi lại 'ê a' tiếng đọc bài theo nhịp thước của thầy- cô tại ngôi trường mà gia đình tôi trú ngụ.
Hình trắng đen chụp năm 1986, học trò lớp 3 chụp chung với cô giáo tức là vợ tôi cạnh ngôi trường cũ, vách hông trường đã đổ nát trong chiến tranh, nên qua cửa sổ chúng ta thấy một khoảng sáng trắng. Trong bài viết, tác giả sau này đứng ru con gái nơi cửa sổ phía sau, chỗ tạm trú của vc tôi nơi ngôi trường quê sụp nát
Nghèo là nghèo chung , khổ là khổ chung tất cả đều chia sẻ nhau những cơ cực. Ngày TẾT THẦY CÔ hàng năm học trò nghèo không có chi có khi lại xách luôn cả xâu cá mới câu được đem biếu cô. Có em lại đem những lon bắp hay nhũng gì trong vườn các em có được đem tới thầy cô lấy thảo. Giờ nhớ lại tôi không quên được nét ngây ngô chất phác của các em học trò vùng quê thuở ấy.
Cô Pho được đổi về dạy gần nhà tại xã Sơn Mỹ Hàm tân và cùng dạy học với vợ tôi tại phân hiệu trường Sơn Mỹ này khá lâu. Thời bao cấp lưong cô thầy vài ba chục đồng, chủ yếu nhờ vào tem phiếu. Cô Ph cũng không ngoại lệ. Ngày tháng chắt chiu nưôi con heo đen, gầy dựng hạnh phúc cho cô đó là ngày cô đám cưới. Ngày cưới của cô gần kề, con heo cô nuôi cũng vừa lớn là chủ lực chính cho buổi liên hoan trong thôn, là tất cả hi vọng cô đặt vào gần một năm trời chăm sóc cho nó miếng cám, ngọn rau. Con heo đen ăn ròng cám chuối, vùng gần biển đôi khi cô cũng thêm cho nó một ít cá vụn. Xóm làng ai cũng xuýt xoa khen con heo mau lớn, thịt nó làm ra chắc là ngon lắm!
Ngày hạnh phúc tức là ngày cưới của cô Pho đã đến. Tất cả giáo viên cùng trường dĩ nhiên phải tới dự. Vậy là tôi có được một ngày tạm gác rìu rựa, ở nhà ru con cho vợ mình đi dự đám cưới. Ngôi trường cấp I do QUốc VỤ Khanh VNCH xây từ thời Khẩn Hoang Lập Ấp 1973 cho đến 1985 thì sụp nát nhiều nơi. Nhưng nhờ nó, gia đình tôi mới có nơi tạm trú qua ngày. Vợ tôi vừa dạy học vừa ở cạnh gia đình, thì còn niềm hạnh phúc nào hơn. Tôi tự nguyện làm phu trường "không lương" dù không ai trợ cấp, nhưng bù lại gia đình tôi có một nơi che mưa đụt nắng thì may mắn rồi.
Đứa con gái sinh năm 1985 của vc tôi đang nằm vẫy đạp trong nôi. Nhờ trời tuy khoai sắn nhiều hơn cơm nhưng con tôi "lớn nhanh như bù", trong thôn ai cũng khen , các cô thầy đi ngang đều ưa nựng bé. Tôi vừa ru con vừa ngóng tai nghe tiếng pháo đám cưới cô Ph bên thôn kế cận nhưng hoàn toàn im lặng. Tôi chợt nhớ ra làm gì thời này mà có pháo! nhất là ở vùng thôn quê rẫy bái như vùng này.
Cái nôi tre méo mó chốc chốc rung rinh theo vẫy đạp của con gái tôi. Tôi vừa ru con tôi vừa ngó vách tường vôi loang lổ vết đạn. Mái trường một vách cưối đã sụp đổ tạm thay bằng những liếp lá buông cùng ván rừng. Qua khung cửa sổ tôi còn thấy được biển Hàm tân xanh ngắt ẩn hiện sau những hàng cây bạch đàn . Thấp thoáng vài con thuyền chài nhấp nhô trên sóng biển. Cứ mùa mực về trời càng chiều càng nhiều thuyền ra khơi . Khi màn đêm vừa buông xuống là muôn ngàn ánh đèn câu mực sẽ thi nhau lấp lánh trên vịnh Hàm tân . Mực là nguồn kinh tế là tiền là vàng cho ngư dân vùng thị xã La Gi. Người dân quê vùng cao tôi đang ở đây an phận với gánh than bó củi , hay thúng khoai " triêng" sắn , ngày ngày mịt mù trong nương rẫy cho đến lúc về nhà thì đã lên đèn , những ngọn đèn dầu mù u tỏa những làn khói xám xịt.
đèn biển mùa câu mực hàm tân
Hôm đó dù mất một ngày đi rẫy nhưng tôi đã sống một ngày có ý nghĩa vì vợ tôi có một ngày thoải mái cùng vui vẻ với đồng nghiệp bạn bè cùng bà con trong thôn xóm, còn tôi được một ngày gần con. Tôi làm sao quên đựơc hình ảnh vợ tôi phải bỏ một ngày may bằng tay mấy tất vải thun tiêu chuẩn cho ra cái áo mới để đi ăn đám cưới. Hình ảnh những chiếc áo dài đã thực sự biến mất vào thời gian này thế vào đó là những chiếc áo Bà Ba hay sơ mi kiểu nữ .
Lòng tôi còn ghi đậm mớ thịt heo vợ tôi bới về sau khi ăn cưới vì thương chồng con thiếu thốn ở nhà. Đó là những lát thịt heo tôi ăn ngon nhất trong đời và cứ suýt xoa khen mãi. Con heo đen đó quả là một gia tài của một cô giáo vùng quê chắt chiu nuôi lớn. Là một đống tiền của người dân áo vải quần thô, sắn khoai thay gạo. Từ ngày trọng đại đó, hình ảnh mà tôi không thể nào quên là những lát thịt heo mang nặng tình nghĩa vợ chồng. Một kỷ niệm khó quên cho tôi về một vùng kinh tế mới - nơi có mái trường rách nát tả tơi cùng đám học trò nghèo ngây thơ, thiếu thốn đến tội nghiệp.
Kỷ niệm một vùng quê nghèo tính thời gian bằng tuổi con gái tôi hôm nay. Thời gian trôi mau thật thấp thoáng mà đã ba mươi mấy năm qua. Hôm nay nhìn cái tủ lạnh của nhà tôi đầy ắp thức ăn, thực lòng tôi chẳng tha thiết ăn gì. Chợt nghiệm ra rằng khi qua xứ Mỹ tôi chưa lần nào có lại cái cảm giác ngon lành năm xưa như mấy lát thịt heo trong ngày cưới cô Pho. Bao nhiêu hình ảnh lần lượt hiện về trong trí nhớ tôi: vợ tôi tất tả ra về những miếng thịt heo đùm trong chiếc mũ vải, ngày cưới cô giáo làng không áo dài không tiếng pháo, đám học trò lem lưốc vùng quê , những gánh than và những rẫy sắn trải dài bất tận…
Đóng lại cánh cửa tủ lạnh, không hiểu tại sao tôi lại buông tiếng thở dài. Tôi thở dài cũng phải, giá như ngày đó vc tôi chỉ có một phần nhỏ mạch sống như hiện tại thì đó quả thật là một "phép nhiệm mầu". Hôm nay, mỗi lần mở tủ lạnh hay nấu ăn chúng tôi chẳng biết thèm muốn thứ gì, ngoại trừ nấu ăn chiếu lệ. Chẳng ai đi ngược được thời gian nhưng từ hoài niệm về một vùng đất khổ, tôi lại cho rằng biết đâu nhờ nó chúng tôi mới có một sức bật vươn lên nơi chốn QUÊ NGƯỜI./.
No comments:
Post a Comment