Monday, July 4, 2011

SÓNG BIỂN QUẠNH HIU

tuổi đời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi. Nên năm 21 tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng thì chưa hề yêu ai. ..[ biển mặn ]


Hồi ký
mùa Hạ 1974-

[hồi ký có cắt bớt nhiều đoạn cho thích hợp ]

xa nhà đã mấy xuân qua
làm trai thời chiến nước non vui cùng
lao xao sóng biển quê hương
vi vu gió hát một vùng quạnh hiu


Thế là tôi phải tạ từ quê ngoại Nại Cửu, tôi phải xa cầu Ba Bến im lìm không tiếng xe qua. Giã từ để thấy lòng còn vương vấn, nhơ nhớ thương thương từng cơn mưa phùn dai dẵng, cái lạnh buốt xương của miền quê ngoại. Tôi lại lặng lẽ chia tay với thôn Tả hữu nhỏ bé, thưa dân, lác đác mấy mái tranh nghèo bên con đường đất đìu hiu ven nhánh sông Vĩnh Định ngày đêm không bóng con đò.

THÔN BA LĂNG

Bãi cát vàng ven biển tưởng như xôn xao dưới gót giày những người mới tới. Cát như bồi hồi lưu luyến tiển đưa những người sắp được trở về tuyến trong, nơi đó tạm gọi là đông dân chứ không hoang vắng như ở chốn này. Thôn Ba lăng là căn cứ của đơn vị chúng tôi đứng đây như người khách mới, tần ngần ngắm từng đợt, rồi từng đợt sóng lao xao đang vỗ vào bờ. Tôi cố ngước mắt nhìn ra khơi. Phong cảnh ở đây chỉ là một vùng biển hoang sơ, chấm phá vài con chim biển, lại có mấy đám chim bay vờn quanh chúng tôi như muốn theo dõi hai đơn vị đang hoán chuyển với nhau vậy.

THÔN VĨNH HUỀ

Đại đội 2 chúng tôi nhận lệnh Tiểu đoàn men theo mép biển, lội bộ sát mép sóng tiến ngược lên hướng bắc độ 5 cây số thì đến ranh giớI hai bên. Trên bản đồ đề thôn Vĩnh Huề, nó chỉ còn tên trên bản đồ, thực tại là một đồng cỏ hoang vu. Tôi lặng lẽ quan sát quanh mình, họa hoằn lắm tôi mới khám phá ra vài ba nền nhà cũ, nhưng dấu vết thật nhạt nhòa chúng chỉ hơi gợn lên trên một đồng cỏ ẩm ướt gần mấy đầm nước lợ (nửa mặn nửa ngọt). Tôi chợt thấy mấy chữ Vĩnh Huề nghe sao hay hay, vừa đi tôi vừa suy nghĩ miên man: Thanh Hội thì sẽ dành cho ban chỉ huy đại đội, xa xa trong kia là Lễ Xuyên, Long Quang…vùng địa đầu giới tuyến, quê ngoại tôi đồng chua nước mặn thế mà tên từng thôn, từng làng khi đọc lên nghe sao thật văn vẽ, thật chữ nghĩa.
Tôi dừng quân đây-thôn Vĩnh Huề- cách Cửa Việt chẳng bao xa chặng hành trình cuối cùng của giòng Thạch Hãn thân yêu. Nghĩ đến Hà Tây, Phó Hội tôi nhớ lại hồi còn bé hình ảnh mấy ông già nặng chĩu trên vai gánh cá hấp bằng nhiều cái om đất(niêu), rồi bằng chân không họ chạy lên bán tận chợ Tỉnh, hay bán rao xóm này qua xóm khác. Có khi họ gánh lên tận Tỉnh để bán nước mắm và ruốc nổi tiếng ngon cũng từ hai thôn Hà Tây và Phó Hội này .


NHỮNG GÌ TRONG LÒNG ĐẤT HOANG VU

Thôn Vĩnh Huề chỉ là một đồng cỏ hoang vu ẩm ướt, không một bóng cây ngoại trừ mấy vạt dương ven biển. Đâu bóng dân làng? Họ đã lưu lạc tận phương trời nào? Có ngày tôi đào lên một số hầm. Thì ra trước lúc bỏ làng ra đi vì chiến cuộc người dân Vĩnh Huề đã chôn dấu nhiều lu, vại bằng đất nung và tôi thấy nhiều nhất là dĩa nhỏ, nói chung những thứ này không giá trị cho lắm. Mấy người trung đội tôi quê ở vùng này thì cho biết rằng: người dân vùng biển có tục lệ phải cúng trước khi ra khơi đánh cá nên họ có thật nhiều dĩa nhỏ, còn lu vại thì để làm mắm hay ruốc, những lu vại nào tốt thì để đựng nước mưa vì dân vùng biển quý nước mưa lắm, chỉ để dùng khi giỗ chạp mà thôi.


BÊN BỜ BIỂN VẮNG

CÁT TRẮNG MỊN MÀNG

Một ngày anh Lê kim Chung điều tôi ra sát biển ,đóng sát với ‘làn chỉ xanh’ (mạn biển).

Hầm của tôi nằm gọn trong một đụn cát lớn, cát màu trắng tinh, hầm lại kín đáo trong mấy lùm dương. Tôi chỉ có một poncho cũ tạm làm chiếu thế mà chỉ mấy phút cát lại phủ đầy.
Chiều buông xuống thật lẹ. Tôi nhìn về hướng tây, dãy Trường Sơn in đậm nét trên nền trời của một buổi chiều vàng. Tôi lại ngoái nhìn ra khơi, mặt biển từ từ tối dần lại. Lác đác vài cánh chim còn uể oải bay men theo bờ. Thật sự gió Nồm đã trở từ lâu, đưa ngọn gió mát rượi vào đất liền. Trong những khoảnh khắc sảng khoái của một buổi chiều tà ven bờ biển vắng, tôi cùng Lợi lấy miếng xốp khá lớn bị sóng đưa vào bờ lúc sáng sớm đem ra đẽo thành một chiếc thuyền nhỏ, còn cánh buồm thì Lợi làm từ một miếng tôn rách. Xong xuôi tôi không quên thêm vào một bánh lái đằng sau , phía trước tôi viết hàng chữ ‘Cửa Việt River mouth’.

Sáng dậy, chờ cơn gió Lào thổi ra mạnh, hai đứa chúng tôi đem thả con thuyền nhỏ ra biển. Thuận buồm xuôi gió, chiếc thuyền bé tí của chúng tôi theo làn gió đưa ra tít ngoài khơi. Một chút tưởng tượng, tôi chống nạnh đứng nhìn theo chiếc thuyền nhỏ từ từ mất hút, lòng tôi nửa hãnh diện như đã làm được một 'công trình vĩ đại', nửa như lưu luyến một người bạn 'vĩnh viễn ra đi'. Tôi thầm ước mong một bến bờ nào đó có ai vớt được thuyền tôi, với hàng chữ ghi trên thuyền họ sẽ biết nơi phần đất này còn có sự hiện hữu của bọn này


Ngày đầu ra mạn biển, thứ chúng tôi cần nhất là nước. Đừng tưởng chúng tôi đóng quân sát biển là ngồi chịu cơn khát nước hành hạ, trái lại chúng tôi chỉ cần đào lên một hố xấp xĩ một mét là có nước ngọt ngay thôi. Điều này cũng dễ hiểu vì mặt bằng của biển ngoài kia thấp hơn mặt đáy túi nước ngọt đọng dưới lớp cát trắng tinh mịn màng . Thế, truyền tin găp may vớ đâu ra đươc nửa tấm tôn cũ rồi Thế uốn cong lại làm thành giếng, cuối cùng tôi có được một giếng nước ngọt quý giá vô cùng. Nón sắt làm gàu, chỉ cần với tay tôi có ngay một gàu nước ngọt thơm tho không lẫn mùi phèn như cái giếng trong chốt đại đội. Nhưng chúng tôi không dám tham lam đào sâu thêm nữa vì chỉ sâu thêm ít nữa là giếng sẽ bị nhiễm mặn ngay. Tôi chợt nghĩ đến Linh, trung đội nặng; có lẽ cái số nó dính liền với chữ nặng nên người nó không được cao lắm nếu tôi không muốn nói rằng ‘lùn’. Cái thằng- miệng khi nào cũng ồn ào, cứ ‘lè-kè’ bên đại đội trưởng Lê kim Chung, nhưng dù sao nó cũng được lòng đại đội trưởng Chung hơn tôi nhiều.

-Chừ thì mày làm sao thoải mái bằng tau hả Linh? Tau chừ thì ở xa ‘mặt trời’ (ám chỉ đại đội trưởng), tau lại có nước trong có cả biển thơ biển mộng nữa đây nghe Linh- Tôi thầm đắc ý một mình.

Tôi lại nhớ đến mấy đứa bạn khác mới ra trường cùng về đơn vị này . Nào Tùng, nào Ngọc cũng là dân Huế như Linh, Tùng và Ngọc thì ít nói hơn, trầm tĩnh hơn. Bốn chúng tôi cùng xếp áo thư sinh tòng quân sau 1972, lại cùng gặp nhau nơi này. Trong lúc đó, dân Nguyễn Hoàng như Thái Đào cũng khoác áo ka ki một năm nhưng lại phục vụ ngược vào xứ Huế. Số phận Thái Đào thiếu may mắn, chỉ một thời gian ngắn ra đơn vị Đào đã trở thành phế nhân mất một chân.

Chuyện thực tế tiếp đến là củi. Chúng tôi chỉ dám thu dọn rồi gom lá dương khô (phi lao)mà nấu ăn thôi. Hơn nữa, đất ven biển rất cần mấy hàng dương này để chống nạn cát lấn dần vào phía trong. Chốn biển vắng vẻ buồn tênh, đôi khi tôi cũng có cảm hứng ngồi một mình ngắm trời mây và lắng nghe tiếng dương reo theo gieo gió. Trời vào hạ rồi đây, mấy tuần này gió Lào bắt đầu thổi mạnh. Sóng biển ban ngày bị gió Lào thổi ra cản lại nên chỉ thấy lăn tăn, đến lúc chiều về trời trở Nồm đưa gió vào lại đất liền sóng mới lớn hơn và lúc này tôi mới nghe rõ tiếng sóng vỗ vào bờ cùng làn gió mát lạnh sãng khoái vô cùng.

ĐÙA CHƠI VỚI SÓNG NƯỚC






Biển sát cạnh tầm tay, chúng tôi lo xong chuyện ‘cơ ngơi’ mới rủ nhau ra tắm biển. Thế là cả một toán ‘đực rựa’ lột phăng hết áo quần để trở về với “thời nguyên thủy”. Dĩ nhiên ở vùng hoang vắng này làm gì có bóng đàn bà để phải ngượng ngùng. Cả một toán đàn ông ‘không áo lẫn quần’ giữa thanh thiên bạch nhật dàn một hàng ngang ra hụp lặn đùa chơi với sóng nước. Khi đang nhấp nhô với sóng biển, tôi chợt nhận ra một đám nuốt, chúng như những cánh bèo trắng lờ đờ, bập bềnh theo sóng dạt vào bờ. Chẳng suy nghĩ tôi chụp một con nuốt đưa vào miệng nhưng tôi vội phun ra ngay vì nó cay và rát miệng vô cùng!

- Nuốt lửa đó Ch. úy ơi!

Lợi đang bơi gần tôi thấy vậy vội kêu lên. Lợi dân làng Phó Hội nên rành những thứ ở biển lắm.
Làn nước trong xanh vào buổi sáng cho tôi thấy rõ từng đàn cá lướt qua vun vút. Tôi tưởng tượng như đang ở tại một hoang đảo nào đó, mà ở đây hoang vắng thật! Cố nhướng mắt nhìn ra khơi tôi nhận ra phần đỉnh của đảo Hòn Cỏ.

Hưởng xong thú tắm biển, một lần nữa cả bọn mình trần trụi ‘hiên ngang’ vượt qua bãi cát trống trở về chốt. Chúng tôi cũng biết dội lại nước ngọt từ cái giếng cỏn con tự tạo , riêng tôi được ưu tiên hai gàu nước còn mỗi người còn lại chỉ một gàu thôi thì giếng đã cạn khô rồi, phải chờ nửa buổi nữa giếng đầy lại.

Cuộc vui nào cũng qua mau, cảnh tĩnh mịch lại trở về với chúng tôi. Càng trưa ngọn gió Lào càng thổi ra mạnh. Cát bay khắp nơi, nhìn dọc theo bờ biển, gió cát tạo thành từng lớp mây vàng nhạt. Chiều xuống thật lẹ; tôi nhìn về hướng tây, dãy Trường Sơn in đậm nét trên nền trời của một buổi chiều vàng. Tôi lại ngoái nhìn ra khơi, mặt biển từ từ tối dần lại. Lác đác vài cánh chim còn uể oải bay men theo bờ. Ngọn Nồm thật sự đã trở từ lâu, đưa ngọn gió mát rượi vào đất liền. Trong những khoảnh khắc sảng khoái của một buổi chiều tà ven bờ biển vắng, tôi cùng Lợi lấy miếng xốp khá lớn bị sóng đưa vào bờ lúc sáng sớm đem ra đẽo thành một chiếc thuyền nhỏ, còn cánh buồm thì Lợi làm từ một miếng tôn rách. Xong xuôi tôi không quên thêm vào một bánh lái đằng sau , phía trước tôi viết hàng chữ ‘Cửa Việt RIVER MOUTH’.



ĐI HỐT CÁ BÀU NƯỚC LỢ



Mùa tháng hạ (hè), cánh đồng trũng nước khô đi nhanh chóng. Cá nước lợ thiếu nước nằm chờ chết khắp nơi. Mới mấy năm dân bỏ đi khỏi đây, cá sinh sôi nảy nở nhiều vô số. Lúc này đàn chim biển tha hồ bay vào bắt cá; từng đàn cá giãy đành đạch trên mấy thảm cỏ nước đang khô dần. Tuy vậy Lợi hứa sẽ dẫn chúng tôi đi ‘hốt cá ‘ chứ không thèm ra bắt mấy thứ cá nhỏ như vậy. Chúng tôi men theo mép biển đi về hướng nam cách chốt chừng ba cây số thì gặp một bàu nước lớn nằm cách bờ biển chỉ vài trăm mét. Lợi hướng dẫn mọi người dùng xẽng đào một đường hào dài và sâu hơn nửa mét cạnh bàu nước hướng nhìn ra biển. Đào xong đường hào thì trời đã xế chiều, Lợi bảo tất cả ra về chờ khuya sẽ đi ‘hốt cá’. Tôi tuy nghe vậy nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ.

Chờ tới khuya khoảng một giờ sáng Lợi đánh thức cả bọn dậy đi hốt cá thật. Lợi không quên đem theo ba cái bao lớn nữa. Chúng tôi lầm lủi đi trong đêm. Trời về khuya khá lạnh, không gian chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rào. Chúng tôi cứ theo mép sóng mà đi. Sóng biển về đem lấp lánh ánh lân tinh. Bầu trời thỉnh thoảng có vài ánh sao băng xẹt ngang, tôi vừa đuổi theo cho kịp bọn vừa ngắm ánh sao băng thấy chúng như đang chui vào lòng đại dương vậy. Gió đêm càng về khuya càng lạnh dần. Đi hơn nửa giờ thì chúng tôi đã đến con hào cạnh bàu nước chiều qua.

Trời ơi ! tôi không thể ngờ cá nhiều đến như thế: cá chen chúc nhau dưới đáy con hào, chỉ toàn là cá lóc mà chúng tôi thì quen gọi là cá tràu. Chúng tôi vui sướng thi nhau hốt cá đựng đầy cả ba cái bao gạo mà Lợi đem theo rồi cùng nhau vác về . Trên đường về Lợi mới giải thích cho tôi hiểu: thì ra mùa hạ nước trong bàu cạn dần, mấy chú cá nhất là cá tràu và trê, ban đêm chúng cảm nhận theo tiếng sóng biển mà ‘cằn’(trườn) ra, thế là chúng rơi hết xuống con hào chúng tôi đã đào. Tôi thực sự thán phục kinh nghiệm của Lợi, một người dân sinh ra từ vùng biển mặn. Về đến nơi chúng tôi đem cá nhốt ngay vào cái thùng phuy (puits) mà Lợi kiếm đâu ra từ lúc nào. Cá trê và rô thì bị nhốt riêng ra vì mấy cái ngạnh nhọn hoắc của chúng biến chúng thành mấy tên ‘sát thủ’ đáng sợ, chỉ cần sơ ý để đám này lẫn lộn vào đám cá tràu một lúc thôi thì đã có mấy con tràu chết lật ngửa bụng trắng hếu.

MONG CHỜ XE TIẾP TẾ

- Ngày mai có tiếp tế rồi , Ch. úy ơi !

Tiếng Sơn nhắc nhở làm tôi vui hẳn lên. Mà thật sự ai nấy trong đơn vị này đều cùng chung một tâm trạng giống tôi. Ai cũng mong ngày tiếp tế mau về lại. Đóng lâu ngày ở một nơi hoang dại anh lính nào cũng mong mau thấy lại bóng dáng chiếc xe tiếp tế của tiểu đoàn; mặc dầu nó đã cũ kỷ, ọp ẹp nhưng lại là niềm vui trong đơn vị. Cứ cách hai tuần chiếc xe quen thuộc đó về một lần tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi mường tượng chiếc xe đó mỗi khi về lại mang theo một ít hơi hám của chốn thị thành; Diên Sanh, Mỹ chánh ư? Hay Phò Trạch, mà nếu là Huế thì càng tốt, vì tôi không cách Huế bao xa mà hình ảnh phong kẹo mè xững Huế, cái tên Song Hỹ giờ tôi nghe sao quá xa vời. Chiếc xe đó còn mang ra chốn này những niềm vui cho lính bằng những cánh thư gia đình hay từ người yêu của mấy anh lính trẻ. Tôi thì cô đơn hơn, lính mới ra trường , hai mươi mốt tuổi đời. Tôi thực sự chưa có mối tình đầu nào làm hành trang mang vai để nhớ để thương cả.

Sáng dậy, quả đúng là một ngày hội cho đại đội 2 này. Mỗi trung đội chỉ cắt năm sáu lính ra bãi biển chờ đồ tiếp tế thế mà khi tất cả tụ lại trên bãi biển cạnh chốt tôi đang đóng thì nghe sao mà ồn ào rộn rã. Tiếng cười tiếng nói, mày tau í ới , lẫn tiếng văng tục ‘loạn xà ngầu’. Trung đội tôi đóng cạnh bãi biển thì thong thả đi vài ba bước là đến chỗ đợi. Tôi hướng mắt trông theo sát mép biển về hướng nam, chiếc GMC vừa đổ hàng xong cho BCH tiểu đoàn ở Ba lăng nó đang theo mép biển đi ra hướng chúng tôi . Lúc đầu thấy nó chỉ là một chấm đen rồi hình dáng thân yêu của nó cáng lúc cáng rõ dần.

-Xe đến rồi tụi bây ơi !

Có tiếng anh nào reo lên. Từ trên xe, tr. sĩ nhất Thĩu, tiếp tế đại đội vội nhảy xuống xe. TS Thỉu dáng người khô khan, nước da ngâm đen, vừa phân phối thức ăn vừa nói lớn để mọi người cùng nghe:

- Kỳ ni đồ ăn tươi là bính ngô và thịt heo thôi nghe.

Thức ăn tươi chia về từng tiểu đội độ nửa ký thịt heo và góc trái bí ngô, chỉ trong ngày đầu là hết sạch. Những thứ còn lại gồm hai ba lon thịt heo hay thịt ngựa của quân nhu, thêm ít ruốc và vị tinh( bột ngọt), mấy thứ sau này thì phải tiết kiệm tính toán ăn làm sao cho đến giáp vòng tiếp tế khác. Còn gạo thì chia cứ mỗi đầu người một ngày một ca ‘y-nốc’ (inoxidable) đong đầy-- gạt sát, thế là xong, đơn giản lắm.

-A còn một ít thư cho anh em đây !

Ts Thỉu vừa đưa thư vừa lo chuyển đồ cho BCH đại đội.
Giờ mới đến lúc chúng tôi lo chuyện đổi chác thùng phuy cá. Sau một lúc kỳ kèo thêm bớt, Ts Thỉu chịu đổi thùng phuy cá với 2 ‘tút’ (toutes) thuốc lá Bastos luxe thế Bastos xanh vì loại Bastos Luxe hút ‘phê’ hơn.

-Nhưng phải chờ kỳ tiếp tế sau mới có đó nghe.


TS Thỉu hứa hẹn với chúng tôi như vậy.
Chúng tôi hì hục một hồi cuối cùng thùng cá nặng nề cũng lên được trên xe. Tôi thở phào nhẹ nhõm, thà chịu thiệt một ít mà có thuốc chia nhau hút còn hơn ôm hết cá mà ăn thì chỉ có ngồi đây mà gãi sưng phù cả người thôi.

-Nhớ mấy tút thuốc nghe TS. Thỉu, chúc bồ mua may bán đắt, vào chợ Diên Sanh mà ‘thẩy’ (bán vứt) nó đi nghe .

Chiếc xe GMC chạy rồi tôi còn đứng nói vói theo. Lính tráng xa nhà chia ngọt xẻ bùi, có nhau từng điếu thuốc, thân thiết như anh em, nhất là cùng mang thân phận làm lính bên nhau . Tôi hơi tức cười trong lòng nhớ lại lời nói kiểu ngắn gọn khi chúng tôi nghe chung một chiểc radio bé nhỏ:
“Mở cái đài (radio)-sang ngang(đổi băng tầng)-không Thúy(ca sĩ Thanh Thúy) thì Tuyền (ca sĩ Thanh Tuyền).”

Tôi vừa nghĩ đến sự hồn nhiên chất phát của mấy anh lính trẻ vừa nhìn theo hình bóng chiếc xe tiếp tế chạy xa dần rồi khuất hẳn trong màn gió cát vàng nhạt. Chúng tôi mang đồ trở về chốt. Hôm nay Lợi, Phê. Sơn lo vá lại mấy mãng lưới rách đã từng bị chôn vùi trên bãi biển này. Tối nay chúng tôi sẽ đi kéo tôm tại mấy bàu nước lợ quanh đây.





CHIỀU CHIỀU TÔI NHÌN LÊN HƯỚNG TRƯỜNG SƠN


Sự yên lặng sớm trở về bên bờ biển vắng. Và cứ thế ban mai tôi có dịp chiêm ngưỡng cảnh bình minh huy hoàng trên mặt biển rồi chiều về tôi lại ngắm ánh tà dương từ từ khuất dạng sau dãy Trường Sơn, phương đó đang ngóng chờ những gót giày chúng tôi nay mai trở lại. Giờ đây ngoài kia, biển quê hương tuy sóng vẩn vỗ rạt-rào, vì biển mãi đợi dân về nên sóng mãi quạnh hiu./.


San Jose, October 2005

No comments:

Post a Comment

30 tháng Tư 2025 -50 NĂM MẤT VNCH