Tuesday, September 27, 2011

HAI LÚA ĐI HARVARD



     Harvard 16 thang 8 2011
     
     Ngẫm cho cùng bà xã tui đặt cho tui cái tên Hai Lúa coi rứa mà đúng thiệt. Gần 20 năm qua xứ "Cờ Hoa" lui tới mãi cũng -đông -tây -nam -bắc Hai Lúa tui chỉ lẩn quẩn bốn hướngcái thành phố San Jose này nghĩa là chưa ra khỏi "BA ÔNG TÁO" ! Số hai vợ chồng tui cứ lận đận theo 5 đúa con. Thậm chí ngày hai ông mụ tui đi đại hội Nguyễn Hoàng thế giới gái út sắp vô đại học đến nơi rồi cũng nũng nịu " ba mạ đi mô mấy bữa ni khôn ai nấu cho con ăn hết~"Bởi vậy cái hậu quả ở gần 'BA ÔNG TÁO" mãi nên ngày rời San Jose đi Boston để dự lễ White Coat  cho đứa con trai thứ ba Hai Lúa tui mới ‘lính qua lính quýnh’ tại phi trừơng. Tình thiệt tui có về VN một lần nhưng lên phi trường họ lo cho tui hết trọi từ vé cho đến cân đo; nhưng lần này Hai Lúa tui đứng trước cái máy 'không người lái' [computer] tự 'chọt chọt' (touch) đề tự lấy vé máy bay ra tui mới phái hoảng !
             -cái kính mô rồi mạ mi?


                    -Ôn dận dưới xắc rồi moi lên coi?


               - chữ ni hắn nói răng mà chớp chớp lia lịa rứa tề ?


      Hai lúa tui càng lính quýnh hơn vì giờ bay sắp bay rồi, mấy người Mỹ tê họ lấy "khỏe re" từ các máy khác và đi vô rồi .
Bà xã tui càng thúc càng giục tôi càng toát mồ hôi, ngực tui tim đập thình thịch!

  -Ai nít do hép pờ li
 ( I need your help please !)


    Hai Lúa tui đánh bạo la lên kêu cứu mấy ông Mỹ đằng góc kia. CÒn may, thấy bộ dáng của tui họ hiểu ngay , hai ông kia vội bước tới:

     -Your ID please?

   Bà xã tui thúc ngay:

- eng lấy thẻ căn cước ra mau!

    Tui vội chìa 2 thẻ ID đang kẹp sẵn trong nách,
     -Hú vía , có được vé máy bay rồi!
   Hai ôn mụ tui vội kéo hai cái va li chạy theo đoàn người đang xăm xăm tới cổng an ninh . Phải rà soát hành lý trước khi vào phòng chờ bay .

   Lúa tui chưỡi thầm trong bụng "tổ cha cái thằng Bin la Đen , trăm chuyện vì hắn mà ra nông nỗi ni !" thật tình, lay hoay lúng túng , cởi ra mang vô , trong lúc thiên hạ thúc sau lưng mình răng mà không lật đật cho được, quá khổ.
 Qua cửa rà an ninh mấy ông Mỹ súng ống đầy đủ cái mặt làm nghiêm gườm gườm .  Nào cởi giày, lấy bót , đồng hồ nghĩa là mọi thứ phải tháo ra tuốt luốt, kể cả cái nịt cũng không 'trừa'. Rõ khổ bà xã tui tư trang, trang điểm chi đem theo cho 'cố' hai vợ chồng chiếm hết 5 cái thau nhựa vuông , đẩy qua cái khung chiếu đèn mắc lên mắc xuống . Tui đang lật đật mang giày đội mũ, thắt lại nịt; cái máy quay phim đồng hồ ui chao mọi thứ 'hầm bà lằng' mệt đứ đử thì bà xã tui bị ông Mỹ ách lại xét đồ trong xách của bà, thú thiệt làm Hai Lúa tui tái mét cái mặt;
 - "không biết chi rứa trời"!!!
    Một chút chi , thì ra bà xã tui quên chỉ một góc chai nhỏ nước lạnh kẹt lại trong xách. Cũng tại cái tội do cái thằng khủng bố cái năm kia đem chất nổ LỎNG lên máy bay đòi khủng bố nước Mỹ mới ra cớ sự ni !

    Hú hồn ông Mỹ kia tha cho đi!

     Hai vợ chồng rui mừng rơn vội chạy theo đoàn người .
    -sắp bay rồi mạ mi ơi!
   Chuyến máy bay đi BOSTON của vợ chồng Hai Lúa tui sẽ bay lúc 6 giờ sáng .

          -chết cha! quên cái vali của tui rồi !!!


     Nửa đường sắp vô chổ phòng đợi, không kịp phân trần chi Hai Lúa tui "ba chân bốn cẳng" chạy thục mạng về lại chổ khám an ninh dò quang tuyến . Hú hồn cái va li phần tui còn nằm 'chình ình' đó chả ai thèm nhòm , vì chẳng ai còn rảnh mà biết tui quên cái vali kể cả mấy ông Mỹ tê. Thì ra tui lật đật nhiều thứ , thiên hạ lộn xộn tối mắt tối mũi Hai Lúa tui mang mọi thứ vào người rồi , cộng thêm cái xách bên vai vội chạy theo cho kịp bà xã .
    Chạy tới chổ vợ tui đang đứng chờ , tui mệt 'gần dứt hơi, lỗ tai lùng bùng cộng thêm lời câm plen 'complain' nặng nhẹ Hai Lúa muốn "xỉu'. Rờ kiếm miếng nước cho đỡ khát thì còn mô nữa! Vì an ninh có cho đem nước vô mô. Máy bay gần bay, tui còn thần hồn mô mà tìm nước quanh mình ?

    Thiệt là chuyến đi bão táp . Ngồi 'yên vị' trên máy bay rồi muốn xin miếng nước cho đỡ mệt thì chưa đến giờ mấy o tiếp viên làm việc . Hai Lúa đành chịu trận cho cơn khát hành hạ. Ngó quanh thì mấy người tê vô trước họ có thì giờ đem theo chai không xong họ lấy nước ở các vòi uống sau khi qua cổng an ninh , còn tui thì làm răng có kinh nghiệm này và hơn nữa đi trễ làm gì có giờ mua nước ở các quày sau khi qua cổng an ninh?

     -Té ra họ khun (khôn) hơn miềng dữ tề !


Tui chờ vợ hết chận (giận) phân bua như rứa .

    Hai Lúa tui bị đi một chuyến bay nhớ đời vì thằng con trai thứ 4 tên Viễn Dương cũng đi, nhưng rắc rối vé bay nên nó đi chuyến sau. Nếu thằng  Ty này mà đi theo Hai Lúa thì đâu có rắc rối chi. Tụi nhỏ ở xứ này chuyện 'chọt chọt" trên máy mà lấy vé thì dễ ợt .

    - Đi một ngày đàng học một sàng khôn, ôn bà nói rứa mà coi   đúng dữ a!

    Hai Lúa vì cái tội không ra khỏi bếp và cái vườn cải sau nương mới 'quê một cục' như rứa .
CÒn nhiều thứ ở Boston nữa kể ra đây thì làm răng kể ngạ (hêt)! Chỉ biết rằng vợ chồng tui nhất là HAI LÚA phải đi du lịch nhiều cho mở mang ra với thiên hạ .

Nói rứa , Hai Lúa cũng tự an ủi vì thằng con trai thứ hai nó cũng làm vơ chồng tui mầng rợ lắm vì nó đã vào được đại học y khoa HARVARD rồi .

Và chuyện này là cái cớ cho Hai Lúa trèo lên máy bay đi một chuyến bão táp như tui kể trên
.

khang dinh gave a speech at Stanford 2010 June
https://picasaweb.google.com/lh/photo/15njx4CxbcYJDevas2tfAw?feat=directlink

Wednesday, September 21, 2011

NÓI VỚI TUỔI GIÀ








nhạc sĩ Văn Cao với SUỐI MƠ
****************************************************************************************

-
Mở miệng ra mà nói chuyện với tuổi già được chưa nhỉ ?

- Ơ hay!
-GIÀ!

chữ này nghe thật ‘ QUÁI ÁC” như một vị khách ta thật không muốn thấy, không bao giờ mời, thế mà cứ ‘sồng xộc’ chạy tới, đâm sầm vào ta khiến ta không còn tránh né

“Ta già rồi” Ơ! bỗng ‘ngớ ‘ ra ‘đờ đẫn’ ra, hay thật, lúc nào? Ơ hay, 3 tiếng quái ác như tiếng kêu loài quái điểu từ thinh không vang dội lại khiến ta không kịp tránh; ngỡ ngàng, choáng váng; buồn tủi; cố dụi mắt nhiều lần: “lạy trời, chỉ là giấc mơ”, không! đây là thực! không mộng chút nào.

Nhưng phải hãnh diện lên chứ! Đã sống xuyên ‘thiên niên kỷ thứ 3’ mà! lời-lỗ- sống- chết – ranh giới của hư vô và thực tại. Tự hào , nhưng sao mãi vẫn buồn.

‘Buồn’

Ta thử phát âm một lần nữa xem sao: - cộc lốc- khô khan-

Một âm thanh nghe khô quá, chát chúa quá như sự va chạm đột ngột của ‘Lão Già’ ta không có ý đợi mà vẫn ‘sồng sộc ‘ chạy đâm sầm vào ta

Mấy tấm gương soi lại bị họa lây rồi, ta chán nó, ta càng ghét nhìn, những dấu chân chim lần lượt hiện nhiều trên mặt- khóe môi-đuôi mắt- oan khiên- gương đâu có lỗi lầm gì?

A, những nắm tóc trắng, bạck kim lả tả rơi theo tiếng kêu của chiếc máy cắt - một phát giác hãi hùng có, thú vị cũng có- và rằng: GÌA !
Ta nhếch mép cười: thường tình là chính ta, cái sự đời là đây. Ta- “té ra mi cũng thế”:


-SỢ HÃI!
-HÈN !

-Ơ! ta cũng thật hèn! Sao lại sợ?


-Ta hèn vậy à?

- thôi! ta chấp nhận, thật ngớ ngẩn, ta cứ vui đi! được không?


Ngòai kia xôn xao tiếng nói cười- những đôi bạn- đời vẫn vui,vẫn trôi, sao ta tự nhốt chính ta?

Có một điều,ta năn nỉ ÔNG GIÀ, vì ta đã thành khí khái- tuỗi già hãy đến với ta. Vì ta : Nam Nhi- ta đang vui trở lại, bình an. Ta đang giang tay đợi bạn.
Còn bên kia, cánh đàn bà – xin ông chậm tới - Ông Già ! hãy tới với ta- ta chấp nhận mọi điều. Nào ! Ông- Ta chén rượu chén trà, xin hãy lại với Ta. Giờ thì BẠN cùng TA say, ngất ngưỡng- choáng váng- hãy vào thiên niên kỷ mới.

Ngoài kia, tiếng chim reo vang, một buổi sáng mới- chim vẫn sống, vẫn hồn nhiên. Có tiếng chim ta nghe như tiếng sơn ca ớ quê ta, xa lắm –Ông Già ạ !

30 tháng tư 2008
San Jose
Đinh trọng phúc

Tuesday, September 20, 2011

HỒI KÝ : MỘT THUỞ ĂN HÀNG


BÁC BÁN PHỞ GÁNH

hồi ký Đinh trọng Phúc

xin tặng những ai còn nhớ về Q trị xa xưa



Những ngày xa xứ tôi hay ngồi nhớ lại chuyện xưa. Người khác thì hay nhớ về quá khứ nào huy hoàng,mỹ lệ, riêng tôi có lẽ vì một ‘tâm hồn ăn uống’ nên năng nhớ lại cái chuyện “ăn hàng” ngày xưa ở Quảng trị chăng? Nhưng dù thế nào đi nữa, thành phố đó chừ đã mịt mờ khuất hẳn trong vùng ký ức rồi.

Hồi đó ai nói người dân QT mình không ‘ăn hàng’ hỉ, có chớ! nhưng chuyện ‘ăn hàng’ của dân Qtrị mình đằm thắm và nhẹ nhàng lắm.

Hồi đó quanh chợ Tỉnh chỉ lèo tèo vài tiệm ăn nửa Tàu nửa ta như Nhuận ký. Đường ký hay thuần Việt nam như Lưu khách, NHư Ý... Sau này khi lính tráng đông tôi thấy mọc thêm vài tiệm như Thanh Thanh, hay ngược lên nhà máy đèn thì có tiệm Phương mai hoặc ra hướng bờ sông thì có lữ quán Mỹ thủy tiếp đến là dãy quán chè đêm, bún thịt nướng v.v.. bên bờ sông Thạch Hãn .

Nói chung phố Quảng nhỏ và trầm lặng nên mới ra khỏi trung tâm phố chợ thì khung cảnh đã đìu hiu một vẻ ngoại ô rồi. Dân mình chiều chiều ăn hàng thì chỉ chờ vài ba gánh bún xáo tức là bún bò nhưng thịt bò loại rẻ, bánh bèo, bánh nậm. Vài ba O bán nem chả dạo với một cái giỏ xách gọn một bên tay. Còn ban mai thì có mấy gánh cháo hầm, bánh canh hoặc bánh mỳ nóng mới ra lò. Mấy o đi bán hàng bao giờ cũng bận áo dài, mặc dầu chiếc áo đã đổi màu theo năm tháng nhưng phong tục dân mình đã quen, đàn bà ra đuờng mà không có áo dài là không được !

Mang tiếng là thị xã nhưng thành phố Qtrị đặc biệt xưa lại mang tên từng thôn như Thôn Đệ Nhất, Đệ Nhị cho đến Đệ Ngũ. Nhà tôi ở Thôn Đệ Tứ trước Cửa Hậu, Thành Cổ Qtrị. Sau này khi xã Quảng trị được thành lập người ta còn gọi là phường Đệ Nhất, đệ nhị.v.v.

Mấy gánh hàng rong phố Quảng chỉ bán quẩn quanh từ đầu thôn đến cuối thôn là hết, nên mấy O bán hàng chỉ lay hoay trong thôn mình ở thôi, ít khi mấy O gánh qua thôn khác.

Đó là hàng bữa sáng hay chiều . Tối đến QT cũng có những thứ hàng ăn đêm nữa chớ. Lần trong trí nhớ tôi cố đi về sống lại với những hình ảnh và âm thanh của môt thành phố thuở nào mà giờ đây đã phôi pha chôn vùi theo cát bụi thời gian.


********************************************************************************************



Ai nói dân QT mình hồi xưa không có phở, có chứ ! người QT mình ăn phở từ lâu. Có điều người QT không phân biệt phở Bắc hay phở Nam gì cả, phở là phở, khác với bún bò, đơn giản thế thôi. Tôi lại không muốn diễn tả tô phở trong tiệm, nó lủ khủ đủ thứ nào rau ớt chanh hành hay ngò gai húng quế; mà tôi chỉ kể lại gánh phở của một bác ngày xưa, một thứ phở khách ăn đêm phải hòa mình trong không khí vắng vẻ và cảm giác se se lạnh ở góc đường hay cuối kiệt nào đó.

Từ xửa từ xưa không biết ai tạo ra gánh phở cho bác bán dạo về đêm quanh thành phố QT hỉ. Mỗi khi bầu trời thực sự tối hẳn thì bác bán phở bắt đầu cuộc hành trình quanh thành phố thân yêu. Bác luôn mặc quấn đùi và hình như đời bác không biết quần dài là gì nữa. Chiếc áo ka ki bạc màu, trên hai vai áo thì vá thành nhiều lớp vì cái nghề bán phở gánh quằn nặng lên vai bác cũng lâu năm rôi.

Nói về gánh phở , nó được tạo lên từ hai thùng gỗ vuông hình khối chữ nhật đứng, có 4 chân nhỏ. Trên mỗi thùng được bện bằng hai sợi thừng chắc chắn để móc đòn gánh. Thùng gỗ sau được thiết kế làm sao để bác đặt gọn được nồi nước súp. Bên dưới nồi súp bác đặt một bếp củi thật gọn, củi luôn leo lét cháy để giữ nồi súp luôn được nóng. Thùng gỗ phía trước bác chia ra nhiều tầng, để đủ thứ như tô, đũa, rau hành và thịt, phía trên bác dành chỗ để làm phở cho khách. Thấy thì đủ thứ, nhưng bác sắp đặt thật khéo léo nên chẳng thiếu món gì. Đã thế, phía ngoài bác không quên móc theo cái đèn bão có 4 mặt kính chắn gió. Chiếc nón lá đã sờn rách theo năm tháng bác không quên móc theo ở thùng gỗ sau để phòng mưa.

Giang sơn của bác là thế đó- chiếc đòn gánh cong cong quằn nặng trên vai, bác thường tìm một ngả ba đường hay trước mấy con hẽm lớn :

-PH.. Ơ… Ở….

Bác cất tiếng rao, tiếng ngân vang sâu vào trong mấy xóm vắng ngoại ô.

Trong Nam, tiếng rao phở ban đêm được thế bằng tiếng gõ lóc cóc của hai thanh gỗ nhưng tiếng rao của gánh phở QTrị xưa là tiếng rao lanh lảnh, âm sau cùng cao vút lên hẳn:

-ph…ơ…Ở……

Ánh điện đường như biết cảm thông tỏa sáng giúp gánh phở bên góc đường của bác. Có khách, bác ngưng tiếng rao, trịnh trọng bác đặt cái tô nho nhỏ lên mặt trên chiếc thùng gỗ, sau khi nhúng lại nắm phở tươi mịn màng óng ả rồi nhẹ nhàng bác cắt thật mỏng từng lát thịt bò, không quên gia thêm một xíu vị tinh (bột ngọt) hiệu Thái sơn từ cái hộp sắt Tây luôn đặt gần bên, xong bác quay lưng dở nắp nồi xúp đàng sau. Dưới ánh đèn đêm tôi thấy rõ nồi xúp đang bốc hơi ngùn ngụt tỏa lên như một làn khói trắng.



về đêm ăn một tô phở bên đường bao giờ cũng ngon


Trời càng khuya con đường ngoại ô càng trở nên vắng vẻ, nhưng khách ăn đêm cảm thấy tô phở càng ngon hơn và ấm áp lạ thường. Chẳng đòi hỏi cầu kỳ, khách cứ tự tìm chổ nào thuận tiện bên vệ đường, ngồi xuống xì- xụp thưởng thức tô phở bình dân đó. Vì là phở gánh nên phần đông khách của bác chỉ mua phở về nhà bởi vậy bác chẳng lo đến chuyện ghế ngồi. Sau khi đẩy lại mấy que củi, rảnh tay, bác lại cất tiếng rao mà giọng nghe không bao giờ thay đổi:

-ph. Ở….

Có thêm khách rồi đây, ai đó trong xóm đang tất tả cầm tô chạy ra vì bác đang sửa soạn gánh đi nơi khác.

Cuộc đời lam lủ của bác bán phở lặng lẽ trôi nhanh. Chiếc đòn gánh cong cong, đen trui trũi mãi kẽo- kẹt đè nặng lên vai, tuy vậy bước chân của bác vẫn nhịp nhàng đếm bước
trên mọi nẻo phố thân quen ngày xưa Quảng trị.




Nhưng đời người ai cũng có lúc thay đổi, bác bán phở QTrị năm xưa cũng thế. Gánh phở của bác giờ đã được thay bằng chiếc xe đẩy đàng hoàng. Chiếc xe phở hình khối, phía dưới có 3 bánh cao su nho nhỏ, ngọn đèn bão giờ đã được thay bằng ngọn đèn đốt bằng khí đá (carbur) hẳn hoi. Hai bên thành xe bác còn cẩn thận móc thêm hai cái ghế đòn bằng gỗ có chân cao cho khách ngồi. Giờ đây nồi xúp được làm lớn hơn, chồng tô trên thành xe trở nên cao hơn. Khách ăn đêm ngồi ăn phở vừa nghe tiếng lì- xì phát ra từ ngọn đèn carbur đó. Dạo này tiếng rao của bác nghe to lắm, bác chắp tay đằng sau “oai vệ” hướng mặt vào trong mấy con đường kiệt.

Ph..ở…ơ..

Có ngọn gió nào trong đêm làm trời khuya trở nên se lạnh. Trong sự tĩnh mịch đó, tôi nghe văng vẳng tiếng con chim quốc kêu bầy vọng lên từ bờ hồ bao quanh ngôi thành cổ. Hương phở vẫn dịu dàng tỏa ra bốn phía. Một ông khách đi đâu trên phố về ngang qua, chợt dừng lại, ông vội dựng chiếc xe đạp qua một bên đường sà vào quán bác ăn một tô cho ấm bụng trước khi tiếp tục đạp xe về nhà.

Bác tiếp tục đẩy chiếc xe đến từng đầu con hẽm hay mấy ngả ba đường cho đến khi nồi phở của bác không còn gì nữa. Thế mà mớ xương xúp còn lại bác cũng bán được cho một ông khách chuyên ưa men rượu thế là bác chấm dứt một ngày miệt mài lam lủ.


CHÈ GÁNH


Thật tình mà nói người dân quanh phố chợ thì hay ‘ cựa đóng then gài’ ít có dịp ‘tung tăng thoải mài’ ra ngoài đường ăn hàng đêm như những người dân sống ở vùng ngoại ô gần thị xã.

Đặc biệt vào những đêm "trăng thanh gió mát" là những lúc có mấy gánh chè của mấy O từ mấy xóm lao động ở mấy thôn Thạch hãn, Trí bưu, Hạnh hoa hay mấy xóm nghèo ở dọc theo mấy con đường Duy Tân, Hồ đắc Hanh đi bán dạo quanh mấy đường phố ngoại ô bao quanh 4 cổng đường thành.

(Thành Cổ QTrị hồi đó có 4 cổng:
-cổng Cửa Tiền ngó ra đường Lê Thái Tổ
-Cổng Cửa Tả ngó ra đường Duy Tân có ngả 3 đường về thôn Quy Thiện - 2 cổng này bị đóng từ lâu.
-Cổng Cửa Hậu tức cổng Lao xá ngó ra đường Lê v Duyệt hay đồng ruộng về làng An tiêm.( cổng này bị đóng sau khi lao xá bị đánh để giải thoát tù chính trị vào năm 1967 cũng là năm tỉnh lỵ đầu tiên ở miền Nam bị đánh

-còn lại cổng Cửa Hửu hay còn gọi là cổng thành Đinh Công Tráng ngó ra trường Nam Cửa Hửu hay đường Phan đình Phùng. ( cổng này chỉ để Tiểu khu Quảng trị vô ra mà thôi).

-Trong Nam mấy cô bán hàng rong ra đường không bao giờ quên chiếc áo Bà Ba truyền thống thì mấy O bán hàng rong QT hay Huế nói chung ra đường cứ vẫn bận chiếc áo dài. Nhớ về những đêm mùa Hạ, O hay lựa mấy góc đường có ánh đèn điện tỏa sáng, nơi thường có mấy lũ trẻ hay chơi đá lon hay cút bắt reo đùa ầm ĩ. Thong thả, O đặt gánh hàng xuống vừa nghỉ mệt vừa đợi khách.

Nói đến mấy gánh chè của mấy O tôi phải nhớ đến mấy xong nhôm đựng chè nho nhỏ, sáng bóng. Chè của mấy O có đủ loại: nào đậu xanh, đậu huyết, đậu ván đặc hay bột lọc bọc đậu phụng… Mấy O nấu sao ngon lạ ngon lùng, mỗi loại chè có một vị ngon khác nhau, đặc biệt loại chè nào cũng ăn nóng. Lại thêm mấy chiếc chén đựng chè thì bé nhỏ xinh xinh ăn xong tôi lại muốn ăn thêm chén nữa. Hạt đậu phụng thơm giòn nằm gọn trong lớp bột lọc dẽo dai, hòa lẫn trong vị ngọt dịu thơm lẫn mùi gừng Quảng trị. Hạt đậu ván O nấu bùi bùi, chen lẫn trong làn bột dẻo vừa thơm và đặc sánh cùng nước đường trong vắt. Những hạt đậu xanh, đậu huyết hầm mềm nhưng không bao giờ nát để làm vẩn đục nước đường đậm ngọt. Cả gia tài của O hình như nằm hẳn trong gánh chè này, hương thơm vị ngọt của mấy nồi chè đó là tài nội trợ khéo léo, giỏi giang của bao nhiêu người chị người mẹ QT quê mình.

Khách ăn xong, O rửa lại mấy cái chén bằng song nước đem theo ở một đầu gánh, xong O tiếp tục gánh bán dọc theo mấy con đường nhựa quanh Thành Cổ.

Vầng trăng mùa thu đã lên cao, tôi nhìn theo dáng O bán chè lúp xúp nhịp nhàng bước theo chiếc đòn gánh mềm mại, vẫy nhịp. O vừa đi vừa cất tiếng rao dưới ánh trăng đang nhạt nhòa đi bởi ánh đèn đường:

-Ai ăn chè đậu xanh, đậu huyết, bột lọc đậu ván kh.. ôn….


TRỨNG LỘN


Những năm sau này vào nam tôi mới có dịp nghe từ ‘hột vịt lôn’, thực ra người QT mình hồi đó cứ kêu là trứng lộn thế thôi vì không ai làm nghề bán trứng gà lộn cả.

Hồi đó nghề ấp trứng lộn tại QT chỉ làm theo kiểu thủ công, gia đình. Làc đác đâu đó tôi mới thấy vài bầy vịt nuôi rong trên mấy cánh đồng giáp giới Trí bưu, Quy thiện gần cầu Ba bến. Trong Diên sanh thì có mấy bầy ở đồng Cu Hoan hay gần cua Hà lộc giáp giới Mỹ chánh. Đất ruộng QT hiếm hoi làm sao bì được trong nam nơi ruộng đồng cò bay thẳng cánh, bởi vậy vịt bầy ở QT hiếm hoi là phải.

Bù lại thì trứng lộn QT mình ấp thật là ngon. Có lẽ vì làm thủ công ít ỏi nên người ta chăm sóc từng cái trứng một nên trứng lộn QT mới ngon như thế. Tôi lại nghĩ rằng con vịt QT cho ăn kham khổ hơn nên trứng và thịt nó mới thật đậm đà . Một điều quan trọng người ta dấu nghề ấp trừng dữ lắm, chỉ ‘cha truyền con nối’ mà thôi.

Đồ nghề O bán trứng lộn gọn gàng hơn O bán chè nhiều lắm. Trứng luộc xong, O bỏ hết vào trong một cái thúng có đựng trấu (vỏ lúa) để giữ cho trứng được nóng lâu, lại thêm một cái ‘trẹt’ (mẹt) nhỏ đậy vừa vặn chiếc thúng. Trên cái ‘trẹt’ đó, O dùng cái chai không thuốc bắc dùng rồi để đựng muối tiêu, thêm vài ba cái dĩa đất nhỏ cùng một mớ rau răm được vình trong lá chuối. Màn đêm buông xuống, O bán trứng lộn một bên nách thúng còn tay kia cầm chiếc đèn dầu, O từ trong xóm Hạnh hoa hay Trí bưu, Thạch hãn hướng về mấy con đường phố quanh Cổ Thành.

-Ai… trứng lộ..n…

Có khách, O ngồi xuống một bên đường.

-Trớn mấy một cấy ri.. O…?

-Ba cấy mười đồng.

(trứng bao nhiêu một cái đây cô?- ba cái mười đồng)

Khách ăn trứng lộn cũng ngồi xuống bên lề đường. Cái trẹt nhỏ bây giờ trở thành cái mâm, O nhẹ nhàng đặt 3 quả trứng xuống cái dĩa nhỏ, một dĩa kia o đặt môt nhúm rau răm và tiêu muối.
Ông khách chưa vội ăn ngay, một tay cầm cái trứng, tay kia ông che che nheo mắt soi cái trứng lên ngọn đèn điện đường.

- răng trớn ..tra ri o?

-trớn rứa mà eng chê tra tề..
(
sao trứng già thế cô? trứng thế mà anh còn chê già hả ..)

Nói thế, chứ O cũng chiều lòng khách, O săm soi, lựa sâu trong lớp trấu cho đến khi có được cái trứng nào vừa ý khách mới thôi.

Vô Nam rồi tôi mới thấy cách ăn trứng lộn cuả dân mình khác hẳn: trong Nam người ta mỗi khi ăn trứng họ đặt lên cái tách nhỏ cho khỏi nóng tay, xong họ dùng cái muỗng nhỏ từ từ múc trứng ra ăn. Đó là chưa kể nào bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh kèm theo: nào rau nào đồ chua nào ớt tỏi. Qtrị thì khác hơn: sau khi húp hết nước của cái trứng, ông khách chỉ bóp một cái là cả cái trứng tuôn vào miệng chỉ còn lại cái vỏ đã bẹp dí trên tay. Ông khách vừa nhai nhồm- nhoàm lại ghém thêm một nhúm rau răm cùng một tí muối tiêu vào miệng, thế là xong. Tôi là một thằng bé đứng gần đó thán phục tài ăn của ông khách lắm vì tôi thì ăn vài lần mới hết cái trứng. Cứ nhớ mãi có khi tôi bắt chước cách ăn của ông -bóp một lần- rủi thay! miệng tôi thì nhỏ, trứng bên trong còn nóng hổi, nhổ ra thì tiếc của,báo hại thân tôi nước mắt ràn rụa vì nóng phỏng cả miệng.

Mỗi khi có khách mua trứng về nhà, o kèm muối tiêu gói sẵn trong mấy gói giấy nhỏ xíu, còn nhúm rau răm thì được đựng trong một miếng lá chuối, thế thôi đơn giản lắm.

Công bằng mà nói, trong mấy thứ hàng rong ban đêm, thúng trứng lộn của O xem thế mà thuộc loại đắt tiền khi so với đời sống của người dân lao động, lính tráng hoặc công chức nhỏ, hay so với giá trị đồng bạc cùng thời.


MỲ XÍU

dân Quảng Trị hồi này chỉ ưa ăn bánh mỳ baguette bột nhồi theo kiểu Pháp

Khoảng mười giờ đêm thì rạp xi nê Đại chúng [
sau này đổi tên là rạp Kim Châu do bà Fatima người Ấn làm chủ) đã tan khách, mọi người ra về túa ra đủ mọi ngả đường. Phần tôi thì hay thả bộ men theo con đường Lê thái Tổ lên đến phố, rồi từ đó tôi sẽ theo con đường chính Trần hưng Đạo xuôi về trại quân dịch để về nhà.

Giờ này quanh chợ Tỉnh cửa sắt trước những cửa tiệm đều đã đóng kín mít, quanh mấy góc phố chỉ còn thấy mấy chiếc xe ‘mỳ xiu’ thôi. Nhắc đến tiếng ‘mỳ xíu’ hồi đó tôi hay thắc mắc phải chăng tiếng này phát xuất từ tiếng Tàu là bánh mỳ ‘xà xíu’ hay ‘xíu mại’ gì đó rồi người QT mình đơn giản đi gọi là ‘mỳ xíu’ cho gọn chăng? Tôi hay ghé mấy xe mỳ xíu này mỗi khi đi xem phim trên phố về. Trên con đường phố khuya, tôi có một cái thú vừa đi tôi vừa 'gặm' ổ bánh mỳ nóng dòn, thơm phứt.

Đặc biệt mấy xe bánh mỳ đêm ít khi đi xa tận mấy xóm ngoại ô, mấy chú chỉ loay hoay quanh phố chợ Tỉnh mà thôi. - Dạo đó có hai lò mỳ lớn là Đắc lập gấn nhà máy đèn và Vạn Hoa gần miếu Ông Voi đường Quang Trung cạnh chợ, sau này còn có thêm một lò mỳ và kem gần trường trung học Nguyễn Hoàng- Chiếc xe bán mỳ xíu trông nhẹ nhàng hơn chiếc xe phở nhiều lắm. Ba bánh xe làm từ bánh xe đạp, trong thùng xe chú không đựng củi mà lại là lò than nho nhỏ khi nào cũng để sẵn vài ba ổ mỳ cho nóng sẵn. Phía trên thùng xe có chắn 3 mặt kính hẳn hoi trong đó có những lớp bánh mỳ sắp ngay ngắn màu vàng hươm. Tầng trên chú cón chưng một ít phó mát - (fromage) loại đắt tiền của Pháp như ‘ La Vache Qui Rit’ , hay một tảng phó mát hình khối tam giác màu vàng chóe bình dân và rẽ tiền hơn, thế mà hinh như khách của chú đa số chỉ ưa hương vị mỳ xíu tự tay chú làm hơn. Tôi cũng vậy, tôi chỉ thích loại mỳ xíu của chú bán mà thôi. Nói là tiếng mỳ xíu chứ thật ra không mang một chút hơi hám gì của Tàu cả mà ‘xíu’ ở đây hoàn toàn Việt nam hay nói đúng hơn là hoàn toàn Quảng trị. Nhìn mớ xíu của chú kho từ thịt heo, lẫn một ít chả cắt mỏng, ngoài ra không có thêm thứ gì cầu kỳ cả, thế mà khi chú bỏ vào trong ổ mỳ nóng dòn tôi cảm thấy một hương vị rất riêng, rất thấm thía ngon hơn hẳn bánh mỳ thịt nguội trong nam nhiều lắm. Đó là những lúc tôi còn đủ tiền, nếu ít tiền tôi mua một ổ mỳ không chú không hẹp hòi gì, sẻ mỳ, chú chan thêm cho 'một xí' nước xíu nữa là xong.

Một điều lạ, chú bán bánh mỳ xe không bao giờ cất tiếng rao cả. Chú lần lượt đẩy qua từng góc phố đứng chờ khách. Thỉnh thoảng chú lại sửa sang lại lò than trong thùng xe, rồi lại ngước mắt nhìn năm ba người bộ hành qua lại trên hai vĩa hè của con đường vắng như mời mọc, đón chào.

Phố càng khuya càng vắng khách dần, thật lâu mới có một chiếc xe tuần nhà binh chạy qua hay một chiếc Honda đi đâu chạy vội v ề nhà. Có lúc chú yên lặng đứng nghe tiếng đại bác từ hướng Gio linh hay Đông hà vọng đến lúc này trên mặt chú hình như thoáng buồn .

KẾT

Chiến tranh càng ngày càng tăng cường độ, người dân phố Quảng mất dần đi những ngày tháng êm đềm. Rồi những gánh hàng đêm thưa dần,ít hẳn đi .

Thời gian lạnh lùng trôi nhanh: thập niên này tiếp đến thập niên khác, lớp người của thành phố nhỏ bé ngày xưa đó giờ tóc đã ngã màu sương tuyết hay có người đã về với những người ‘ muôn năm cũ’. Ôi thời gian! một chất mầu làm tăng thêm nỗi niềm nhung nhớ khôn nguôi. Những tiếng rao hay TIẾNG XƯA của phố nhỏ thân thương đó giờ không còn nữa , nhưng hồn xưa vẫn sống mãi trong lòng. Rồi khi thu qua đông đến, nhìn lá vàng rơi tôi chợt trào dâng nỗi niềm hoài cổ. Nhưng dù cho ai có đi xa tận chân trời góc biển người Quảng trị vẫn mang nặng trong tim nỗi buồn viễn xứ cùng tình hoài hương không bao giờ phai nhạt.

ghi chú:
trước 1975 người thành phố QT gọi danh từ Thành cổ là THÀNH thôi

ví dụ:

-tiểu khu đóng trong thành
-trong thành bị pháo kích bây ơi
-cửa thành Lao xá
v.v..

Đinh trọng Phúc
San Jose 1 ngày giáp Tết


Sunday, September 11, 2011

NGUYỄN HOÀNG DU LỊCH 4/9/2011















<!--[if gte mso 9]> Normal 0 false false false EN-US KO X-NONE


Wednesday, September 7, 2011

THÁNG 9 NGUYỄN HOÀNG














Tháng chín, anh đi Nguyễn Hoàng,

gặp em từ thuở vô vàn nhớ nhung,

đâu đây ngọn gió tương phùng,

bay theo cánh bướm giữa vùng gấm hoa,

ánh mắt nhìn quá thiết tha,

bàn tay níu chặt phương xa trong lòng,

ngôi trường bên cạnh dòng sông ,

nơi miền giới tuyến xoáy vòng kẽm gai,

đời con gái, phận làm trai,

ôi chao quê mẹ miệt mài long đong,

chiến chinh, chinh chiến hãi hùng,

ai còn ai mất qua từng phút giây,

đen với đỏ, rủi với may,

thấy trong vàng úa có ngày thiên thanh,

trong em vẫn còn có anh,

trong em vẫn đẹp màu xanh áo dài ,

áo nào nhớ thuở sơ khai,

tung tăng em bước gót hài vấn vương,

nhớ sao nhớ quá ngôi trường ,

nửa đời trôi giạt, bốn phương hẹn hò,

cây đa bến cộ con đò,

tìm nơi đất hứa thầy trò tâm giao,

rưng rưng uống hết ngọt ngào,

qua bao ghềnh thác dạt dào tin yêu,

tháng chín đang bắc cầu Kiều,

Cali xin gữi thật nhiều xôn xao,

chất đầy hành lý nôn nao,

đong đầy tình nghĩa dâng trào đại dương,

Nguyễn Hoàng ơi, dưới mái trường.

PHAN KHÂM

MARYLAND- 2011
















































https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjk5Ty-X1O2yKq6Pex1Lneblm_pP4upvKWEIHFTo_N1QblWnkE3Ap6Z7sAd3KUCSP06383MO4db4YspTezaB5DqbqOqV-YPru66mfY4WUFUQynqyYi8aMrcXW-HgYxtBiXE4M4tHD_mAvA/s1600/2.JPG





thơ Ph
an Khâm
hình ảnh & youtube Đinh trọng Phúc ]

Tháng chín, anh đi Nguyễn Hoàng,

gặp em từ thuở vô vàn nhớ nhung,

đâu đây ngọn gió tương phùng,

bay theo cánh bướm giữa vùng gấm hoa,

ánh mắt nhìn quá thiết tha,

bàn tay níu chặt phương xa trong lòng,

ngôi trường bên cạnh dòng sông ,

nơi miền giới tuyến xoáy vòng kẽm gai,

đời con gái, phận làm trai,

ôi chao quê mẹ miệt mài long đong,

chiến chinh, chinh chiến hãi hùng,

ai còn ai mất qua từng phút giây,

đen với đỏ, rủi với may,

thấy trong vàng úa có ngày thiên thanh,

trong em vẫn còn có anh,

trong em vẫn đẹp màu xanh áo dài ,

áo nào nhớ thuở sơ khai,

tung tăng em bước gót hài vấn vương,

nhớ sao nhớ quá ngôi trường ,

nửa đời trôi giạt, bốn phương hẹn hò,

cây đa bến cộ con đò,

tìm nơi đất hứa thầy trò tâm giao,

rưng rưng uống hết ngọt ngào,

qua bao ghềnh thác dạt dào tin yêu,

tháng chín đang bắc cầu Kiều,

Cali xin gữi thật nhiều xôn xao,

chất đầy hành lý nôn nao,

đong đầy tình nghĩa dâng trào đại dương,

Nguyễn Hoàng ơi, dưới mái trường.

PHAN KHÂM

MARYLAND- 2011

=================================================












CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ...

CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ... Thôi đúng rồi! Ngọn lửa bốc lên từ đằng cái khe nhỏ nơi những thợ săn Tân Thắng...