tựa đề viết theo câu chuyện thực từ cái tâm vô ơn của người đời
dhl
nhà nho xưa [ hình tượng trưng]
ĐỨA
CHÁU VỢ MỘT NHÀ NHO
CỤ ngồi
trầm tư trước kỷ trà ở căn giữa cũng đã lâu. Qua hai tuần trà rồi mà sao vẫn
thấy cụ ngồi lâu hơn mọi sáng khác. Những cơn gió biển ngoài vịnh Nha trang bắt
đầu thổi vào khi cái nắng trong thành phố đã lên cao.
Nha trang-
thành phố biển- xem chừng thơ mộng cho những lứa tuổi thanh niên yêu đời đầy
sức sống. Riêng vợ chồng cụ tuổi đã quá cửu tuần thì chỉ nhớ cái thành phố ở
tận ngoài trung - Quảng trị- một thành phố mà cụ ông lẫn cụ bà linh tính cho
biết rằng vĩnh viễn không bao giờ trở lại !
Cụ là một trong
những nhà nho cuối cùng triều Nguyễn. Trí óc của cụ còn minh mẫn để nhớ cái năm
cụ đổ tú tài cũng là khoa cuối cùng trong thời phong kiến.
Từ Quảng
trị đến Nha trang, ngoài cái vốn nho học cụ còn biết bói toàn hay bốc thuốc. Cụ
tận dụng giúp đời chứ nó không làm ra tiền ra bạc trong cái thời phong kiến suy
tàn.
Trí nhớ của cụ
lan man về đâu đâu, tận cái thời son trẻ dưới huyện Triệu phong một thời cụ
sống trong một gia trang , có ruộng vườn có tá điền , và vốn liếng ruộng vườn
trâu bò bao nhiêu hai cụ cũng đầu tư cho những đứa con trai theo con đường tây
học trong thời Đại Pháp ; cái thời mà vua quan triều Nguyễn chỉ là những
bóng mờ trong một xã hội đang theo Tây phương. Những mốt áo quần , lối ăn chơi
thành thị, càng ngày càng làm cụ nhớ cái thời xa xưa hơn.
Thời buổi
chiến tranh nhà cụ không còn ở chốn ruộng nương mà thiên cư lên tỉnh thành sinh
sống. Cụ bà tần tảo bán mua ở chợ QT , nuôi cụ ông sống cảnh 'thanh bần lạc
đạo' có nghĩa là không giàu có hơn ai nhưng cũng đủ cho cụ ông làm thơ đọc sách
, bốc thuốc cứu người.
Cụ bà
cũng có đứa cháu lên ở với bà. Cụ ông thuơng cụ bà nên thuơng luôn cháu
vợ. Thành phố QT tuy nhỏ nhưng cũng đủ sinh sống để cụ bà bảo bọc cháu
mình học hành đến nơi đến chốn , còn hơn ở chốn nhà quê biết bao giờ tiến thân
cho được.
Gần bên
cụ Ông , đứa cháu bên vợ cũng lây được cái tính trầm lặng của bậc lão nho , ăn
nói chừng mực , gần sách thánh hiền, dĩ nhiên là 'lõm bõm' vì thời đại đã sang
trang.Thằng cháu ỏ gần bà o cũng lây luôn tính chịu khó của bà nên việc gì cũng
làm cho kỳ được không càu nhàu rên rỉ. Đứa cháu hai cụ kể ra thật tốt số, cũng
lên Đà Lạt ở với con trai cụ đang có sự nghiệp trên THành phố Hoa Đào từ lâu.
Nhờ ngang vai vế với con trai cụ ở đây nên cả nhà con trai Cụ coi như ông chú ,
mấy năm trời "cơm dâng nước rót" cho cháu Cụ là người sinh viên tiếp
con đường đại học trên này.
Đó là kỷ
niệm cho cụ ông khi cả nhà đã vì thời thế chiến tranh chạy vô tận xứ Nha trang
. Còn đứa cháu vợ nhờ có nơi nương tựa để ăn học tuy sau này nhập ngũ theo
đường chinh chiến nhưng cũng" có quan có chức" chứ không phải "lính trơn
". Vô tận Nha Trang , cụ ông thuơng vợ vì biết cụ bà nhớ đứa cháu trai hay
cận kề , chiến tranh phiêu bạt, không biết giờ này phiêu dạt nơi đâu ?
Rồi thời thế
lại đổi thay - thay đổi, biết bao nhiêu lần ! thiên hạ lại đổ xô nhau lìa xa xứ
sở. Cuộc sống càng lúc càng khó khăn , cụ căn cốt nhà Nho khi nào lấy cái đạo
thanh bần mà sống : cụ vẫn thản nhiên coi con tạo xoay vần mà nhìn
cuộc thế.
Tuổi hạc càng lúc càng cao , sáng nay
là lúc cụ ngồi cụ nhớ cụ bà người đã bỏ cụ mà quy tiên trước cụ. Cụ tuy trầm tư
vậy nhưng bụng nhớ cụ bà quay quắt , cụ nhớ về những ngày tháng cụ bà tần tảo
nuôi chồng , khéo léo chắt chiu từng đồng từng cắc để lo cho từng bữa ăn cho cụ
ông. Cái đạo tòng phu của người phụ nữ VN xa xưa đúng là những gì trong mẫu
người của cụ bà là đây là những gì trong suy tư của cụ ông sáng nay trước bình
trà buổi sáng…
**********
Tuy hoàn cảnh
cụ từng sống trong cảnh thanh bần nhưng đám tang cụ coi vậy mà lớn lắm tại
thành phố Nha Trang vào thời này. Các vị chức sắc cho đến các nhà thơ văn lão
thành đều tới viếng cụ. Cụ mất lúc sắp thọ đúng một trăm năm-bách niên giai lão - biết bao nhiêu
di bút của một nhà nho còn đầy ắp trong cái rương cũ kỷ . Còn lạ một điều ! tuy
cụ ông quy tiên rồi mà thơ văn đối họa vẫn còn được gũi tới địa chỉ nhà cụ. Ai
cũng biết rằng cụ là nhà nho cuối cùng của triều Nguyễn , khi cụ mãn phần ai
cũng ngầm hiểu đây mới chính thức cái thời điểm cáo chung nền Nho học VN. Cụ là
bằng chứng bằng xương bằng thịt cho cái thời điểm cuói cùng đó. Cái lư to trước
nhà khi nào cũng đầy huơng , người trong nhà phải thay nhau lấy bớt đi vì sợ
cháy. Chỉ có trong nhà mới hiểu sâu sắc nỗi buồn thầm lặng của cụ ông những
ngày cuối cùng không thấy mặt đứa con trai đang ở tận trời xa vì thời thế. Dĩ
nhiên trong nỗi nhớ đó có cả hình ảnh đứa cháu vợ từng sống gần hai cụ bao năm
.
Gần hai
mươi năm sau, thời thế thay đổi khá nhiều. Những con người rời xa xứ sở tưởng
không bao giờ về nay họ đã lần lượt về thăm quê huơng bản quán. Các phi trường
nay khá rộn ràng; nhất là phi trường trong nam tức là phi trường Tân sơn Nhất,
Việt Kiều trở về thăm quê càng lúc càng đông. Thời gian này trong nước thiên hạ
đã bớt khổ cũng là lúc người ta thực hiện cái chuyện "đền ơn đáp nghĩa". Biết bao tiền
bạc thay lời nói , chuyển tải tình thuơng cho ai đã cưu mang đùm bọc cho những
kẻ ra đi.
Thế
mà lạ đứa cháu mà hai cụ chắt chiu bảo bọc năm xưa nay "áo gấm về làng" chẳng một nén huơng về thăm hai cụ !
Bao chuyến xe ngang qua thành phố kia nhưng đứa cháu chẳng màng. Bao ân
nghĩa, bao tình thuơng trong ngày tháng cũ nay đã phai tàn, thay vào đó là
những cuộc vui chơi . Bao lăng
tẩm đền miếu dù xa xôi cách trở đứa cháu kia chẳng lo gì chuyện tốn tiền hao
bạc. Ăn nên làm ra - con cái thành tài - nhà cao cửa rộng , bao tự đắc của đứa
cháu nay nhiều tiền lắm của nhưng lòng hiếu để , nợ ân tình thì "teo tóp" như
chiếc lá khô !
Con vật còn
biết ơn chủ, gặp người nuôi nấng nó còn ngúc ngoắc đuôi. Chua chát thay
mang tiếng con người nhưng khi ân nghĩa bạc trắng như vôi thì lấy ân làm
oán hay cố quên hết mọi thứ xa xưa cho đúng với cái bản tánh riêng mình !
Trên đồi cao xứ
Mỹ, khi những chai sâm banh nổ dòn lần
lượt ăn mùng , khoe khoang những căn nhà mới "trên đồi" , thuộc loại đắt tiền dành
cho giới giàu có . Kèm theo những tiếng a dua thán phục những sự "đầu tư khôn ngoan" và cũng là "cái tài cái mẹo luồn lách, trốn tránh" sự thật làm ăn trong một quê huơng mới, một nơi từng dang tay đón tiếp mình. Đúa cháu và gia đình hả hê thỏa mãn nhà mới- villa mới hay
những khi xênh xang du lịch “áo gấm về làng “, về trong lòng quê huơng - trong những chuyến xe bóng nhoáng tới thăm những danh lam thắng cảnh , những thành phố xa xôi tận ngoài Bắc . Chua xót thay,
bên mộ phần hiu quạnh của hai cụ không một nén nhang tưởng niệm !
Ngọn gió biển
Nha Trang vẫn nhẹ nhàng thổi , vẫn trầm lặng như tâm tư cụ nhà nho người hay
suy nghĩ chuyện đời, coi đó là chuyện thuờng tình của cuộc đời ô trọc , Đó là
cái lý cho một nhà Nho cuối cùng của thế kỷ hai mươi nước mình sống an nhàn ,
cam cảnh THANH BẦN LẠC ĐẠO đó thôi.
Chắc chắn rằng khi
chiếc xe du lịch chạy qua ngả ba Diên Khánh đứa cháu kia bất giác quay về huớng
núi- phía trái, như cố tránh nhìn về phía tay mặt , huớng biển Nha trang có hai mộ
phần ông bà Cụ . Đứa cháu cố quên những kỷ niệm, những ngày chiến tranh túng
khó , những tình thuơng do quan niệm "máu loãng còn hơn nước lạnh" .
Đứa cháu đó đang ngoảnh mặt làm ngơ từ cái bụng nhỏ nhen, cái lòng e
ngại, chuyện phiền toái "vì phải đáp đền ân nghĩa" đó chăng ?
Chua chát thay
cái sự đời !
đinh hoa lư viết khi nghe kể một thói đời
August 7, 2013
No comments:
Post a Comment