Quảng Trị 2012
Tôi về lại quê xưa sau bao nhiêu năm xa vắng . Nói sao hết bao cảm giác ban sơ thật nhiều xúc động cùng háo hức. Dĩ nhiên tôi đồng ý những lời bình phẩm sau:
-Quảng Trị khác rồi, nhất là Đông Hà lớn lắm không còn nhìn ra mô!
- Phố phường giờ khác xưa dữ lắm, nhất là chợ dời rồi không còn chỗ cũ nữa!
Quả đúng! nhất là chính mắt tôi chứng kiến Quảng Trị khi về lại mảnh đất xưa vào dịp trường cũ của chúng tôi, Nguyễn Hoàng, kỷ niệm 60 năm thành lập. Những con đường cũ nay tôi chẳng mảy may nhìn ra, nhất là nhà cửa san sát bên nhau ,thú thiệt không còn dư một mét đất nào. Những nhà trọ, khách sạn mọc lên nhiều từ đường 1 gần Cầu Ga cũ đi theo múi Trần hưng Đạo vô. Vài mảng vách Trường tư thục BỒ Đề cũ loang lỗ dấu đạn còn được giữ lại để ghi nhớ dấu tích chiến tranh... đó là những gì tôi có thể lấy tay sờ nó và có thể cảm nhận một vết tích còn lại sau bốn thập niên. Ngoài ra tôi chẳng còn một thứ gì để làm mốc rồi theo trí tưởng tượng hình dung lại và tự nhủ thầm:
-Quảng trị ơi, ta đã về đây!
Cái chợ mới của thành phố, đúng ra ngày xưa người thành phố hay gọi là Chợ Tỉnh, nay vị trí đã xa lìa chốn cũ chẳng còn giúp tôi hình dung lại chỗ nào là trung tâm chợ xưa? Thật tệ cho trí óc tôi ! có thể tôi đang choáng ngợp với số lượng xe máy quá nhiều, tiếng còi "tinh tinh" inh ỏi suốt ngày. Mặc dù tôi còn nhớ có số đông di dân QT (năm 1973) vào Bình Tuy lập nghiệp , nhưng khi về lại quê huơng, người QT hiện tại rất đông! những thế hệ sinh sau, khi chúng tôi ra đi, hay di dân từ ngoài kia vô giờ họ đang cư trú khắp nơi, mua bán sinh hoạt, những tiếng nói còn pha lẫn ngoài kia vào , có điều ít có giọng nam.
Thế thì giờ người dân thành phố Quảng trị đang ở hiện nay là ai? "con bầy cháu lũ " mới đó mới đây giờ toàn là thế hệ trẻ -mới. Trong tôi hình như có một cảm giác họ chẳng còn dính dáng gì mình nữa , mặc dầu họ đang sống trên đất QT và tôi là cư dân sinh ra lớn lên trên thành phố QT nay đang trở về.
Bốn cổng đường thành nay đã xây lại, nhưng lạ thay tôi có cảm giác đường nét không còn mềm mại - uyển chuyển như xưa. Với tôi, người sống trước cổng thành QT ngót hai mươi năm mới xa ; hình dáng thành xưa đã khắc ghi trong trí nhớ tôi. Quảng trị mới, có cổng thành mới, bao gạch đá đổ nát trong cuộc chiến nay đã vùi sâu dưới lòng đất, ai cũng tiếc cho một di tích ngàn xưa lưu vết tiền nhân.
Tôi theo con đường về làng quê. Tất cả mọi làng đang đang ồ ạt "bê tông hóa”. Nhà nhà thi nhau xây mới -mái ngói vách xi măng. Giờ tôi khó tìm ra mái tranh xưa ẩn hiện bên hàng cau hay bờ tre xanh ngắt. Những con đường vào làng đang lần lượt đổ xi măng thay nhựa đường. Tất cả đều đi lên theo tiện nghi cùng điện khí hóa về tận mọi ngõ ngách . Giờ đây ánh sáng điện đã về khắp nơi, từ thành phố đến nơi thôn dã. Bà con đang đầy ắp tiên nghi nhờ đường dây điện mang về.
Khi xưa vừa ra khỏi thành phố tôi phân biệt ngay là đang về làng. Những mái tranh , những con đường đất quanh co qua bao đồng lúa, bao làn khói lam chiều cho nồi cơm dùng rơm nấu bếp. Cái nghèo, cái mộc mạc đơn sơ khi về quê ngoại vẫn mãi lưu giữ trong lòng kẻ tha huơng bao tình cảm và nỗi nhớ nhung theo chân tôi qua đến xứ ngừơi, bao năm trôi nổi.
Sẽ có người trách tôi sao có những ý nghĩ khắt khe -cứng nhắc? quê huơng đổi thay rồi, từ làng đến tỉnh -sao vẫn khư khư cố chấp với bao chuyện xa xưa vô ích?
Thật tình tôi khó giải thích thứ tâm lý trong lòng người trở về như tôi. Tôi nhớ mang máng lúc tôi còn nhỏ, có đọc một chuyện kể ngắn một người đàn bà sau bao năm lưu lạc về lại quê làng. Nhìn lại hình ảnh cây đa bến cũ bà không cầm được nước mắt. Những hình ảnh thân yêu lúc bà ra đi từ thời son trẻ cho đến ngày bà lui bước trở về thôn xưa nó vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt". Tâm lý của người trổ về như tôi còn buồn hơn bà già trong câu chuyện kia vì bà về còn có “cây đa cũ- bến đò xưa” để an ủi, còn tôi thì chẳng có chi !
Nỗi buồn man mác, niềm nhớ vương vương đó là tâm lý cho bao kẻ trở về khi tóc bạc trắng. "con tim có lý lẽ riêng của nó mà chính lý trí cũng không thấu được", câu xưa này tôi có thể nhớ lại để tự biện minh cho tâm lý của tôi, một thứ tâm lý dùng dằng khó giải thích. Tôi hy vọng đây là tâm lý hay ý nghĩ chung cho nhiều người trở lại làng xưa quê cũ sau ngót nửa thế kỷ rời xa. Đó là những sự thật nội tâm, bỡ ngỡ lạ lẫm giữa mới và cũ, giữa mất và còn, giữa tiếc nuối vấn vương cùng ngạc nhiên khen ngợi.
Thế mới hay về lại quê xưa tôi bỗng dưng hụt hẩng, khác với sự háo hức lúc sửa soạn khởi hành. Lý do do khó tìm lại hình ảnh đồng quê - hình ảnh phân biệt để biệt giữa nông thôn và thành thị. Có thể dần hồi chúng ta sẽ không còn nhận được làn hơi ẩm thấp từ cái vách đất, mùi ngai ngái của tấm phên lá, hay thứ cảm giác là lạ khi nằm trên cái giường tre ngày trước. Từ tỉnh về quê, khó cởi thoát được cảm giác cái vách xi măng xung quanh mình. Sự phát triển là đây- khi ranh giới giữa đô thị và thôn làng từ từ biến mất. Nhưng nó lại kèm theo sự mất mát tâm lý cho ai có cái thú "du lịch đồng quê " . Tôi có cảm tưởng rằng giờ đây mọi người đang thi đua "xi măng, cốt sắt hóa" tất cả - mọi huớng, mọi nơi. Tôi hình dung cuộc sống giờ như đang đuổi theo tốc độ của những chiếc xe máy. Mọi trao đổi giao tiếp đều hối hả, vội vàng, pha trộn, khô khan, cộc lốc.
Hình ảnh Quảng trị ngày xưa giờ thật sự xóa nhòa. Tôi cho rằng có đông người trở về cùng chung ý nghĩ với tôi. Từ bến đò bên dòng sông Thạch cho đến bãi Nhan Biều đều lạ lẫm. Thời học trò, bốn mươi năm trước tôi từng đứng bên ni sông ngó qua bên tê , bãi Nhan Biều đất bồi thoai thoải , sâu vào trong- những truông bắp một màu xanh ngắt.
Một đất nước đang chuyển mình - sống dậy - nhưng vội vã chẳng một mục đích nào và nhất là không biết về đâu? Quảng trị đang tìm cách hòa mình vào một nhịp sống khác xưa; cố gắng 'sánh bước' với nhiều thành phố lớn hiện nay- Đà Nẵng, Sài gòn, Hà nội... những giấc ngủ ngắn hơn -chờ ngày mai thức dậy lại lao vào một chuẩn mực mới nào đó của thế hệ- đi kiếm sống, sắm sanh, trả nợ, nhậu nhẹt lấy sức và lại tiếp tục kiếm tìm. ..
Chỉ có đi lâu trở về dễ nhận ra rằng mình đã lạ hẳn đi trong cách giao tiếp, bở ngỡ rụt rè- vì trong tâm người về nhận ra rằng “đường xưa lối cũ” không còn ! kể cả người xưa - những con người "thị xã"- giờ phiêu dạt nơi đâu ? họ ra đi biền biệt phương nào? Tôi là người trở lại nhưng lại tự mâu thuẫn với chính mình khi cố đi tìm chút gì hình ảnh xa xưa nhưng sự thật hoàn toàn không còn gì nữa.
Giờ tôi lại giã từ Quảng Trị, một thành phố mới, xa lạ với riêng tôi. Tôi ra đi vẫn mang theo hình ảnh một thị xã xa xưa mờ nhạt trong lòng.
KHI MÔ VÔ SÀI GÒN RỨA BA?
Vợ chồng tôi về quê lần này có nhiều sự kiện mới lạ, đặc biệt khó quên.
Trên chiếc xe "giường nằm cao cấp" xuôi nam, tôi đã có dịp so sánh với các phương tiện giao thông trên con đường độc đạo 1A , thì những chiếc xe giường nằm đời mới này nó đương nhiên hơn hẳn. Tuy giá vé cao hơn, nhưng xe chạy nhanh, lại thêm ăn uống dọc đường hãng xe phục vụ chu đáo hơn. Chuyện này làm tôi phải nhắc đến cái tên "chuyến xe bão táp " người viết chỉ ví von lại với cái tựa đề trong một phim ngắn trên chương trình truyền hình nào đó nhằm đặt cho chuyến xe vợ chồng tôi ra trung này. Chuyến ra quê này là xe khách bình thuờng. Ghế ngồi chứ không loại xe giường nằm như lúc vô lại miền nam trong đoạn kể ở phần dưới. Chuyến xe ra chạy chậm, không an toàn, tài xế lại thiếu tinh thần trách nhiệm quá mức cho phép. Có thể khách đi đã quen với tình trạng đó, nhưng đối với người về như tôi thì quả là một vấn nạn trong lòng.
Có hai cha con trên cái giường cách tôi một hành lang hẹp. Người cha cở tuổi con trai đầu tôi. Dáng dấp người bố. Nếu tôi không lầm, thì là một công nhân hảng xưởng nào đó trong nam. Tôi lại chẳng lầm khi qua giọng nói thì anh ta phải là người Nghệ -Tĩnh, có nghĩa là không phải là người Quảng trị. Cháu gái khoảng ba tuổi , tóc hớt ngắn theo kiểu con trai. Bộ đồ cháu mặc như đang chơi trong nhà không có vẻ gì là đi nam, nói đúng hơn là đang cùng bố làm chuyến viễn hành vào nam trong đời cháu. Anh thanh niên, người bố, coi bộ cưng yêu đứa con gái nhiều lắm. Thỉnh thoảng anh lúi húi lấy từ túi đồ dưới chân ra một chút quà đút cho con ăn. Suốt chặng hành trình dài, hành khách ai cũng thiu thiu ngủ; tôi để ý cháu gái đó cứ lổm ngổm ngồi ngồi trên bụng bố,chẳng chịu ngủ chút nào. Anh thanh niên thỉnh thoảng vỗ vỗ cho con ngủ. Hai bố con đang vô nam, chắc chắn đó là sinh kế; nhưng mẹ cháu gái đâu, tôi đoán chẳng ra.
- Khi mô vô SÀI GÒN rứa ba?
Câu hỏi đột ngột của cháu bé kia chợt cắt đứt dòng suy tưởng của tôi. Tôi bắt đầu chú ý về một câu hỏi hồn nhiên của cháu bé, bất chợt lòng tôi cảm thấy nao nao buồn.
Hai tiếng "Sài Gòn", tưởng chừng đã nhạt nhòa, phủ lấp theo mấy mươi năm quên lãng. Thế mà hôm nay trong một chuyến xe, lại thốt ra chính miệng một cháu bé từ ngoài bắc vào. Câu hỏi của cháu thật sự khiến tôi vừa ngạc nhiên lẫn xúc động.
Có thể tôi đoán đúng. Chính hình ảnh những bận bố cháu về thăm quê, từng vẽ nên một miền nam no ấm. Từ những chiếc bánh, gói kẹo hay quà cáp mà người bố này mỗi lần về quê từng dựng nên một bức tranh Sài Gòn giàu có trong trí óc bé thơ:
-Khi mô vô SÀI GÒN rứa ba?
Câu hỏi của cháu cứ lởn vởn trong đầu tôi suốt hành trình vô nam. Có chút gì chua chát, bồi hồi, bất giác dâng lên trong lòng tôi về cái chuyện 'hay quên' của người đời. Có thể lắm, một số người sinh ra, lớn lên từ đất phương nam nhưng lại 'mau quên' khi đã thỏa mãn với những gì hiện có trong tay. Thế mà trái lại trong lúc này, một em nhỏ không liên hệ chi về một địa danh- nói đúng ra một thành phố mất tên, em vẫn nói lên một cách vô tư như đã từng xưng tụng, ước ao, mong chờ, cùng tràn đầy mỹ cảm về một miền nam tràn đầy hứa hẹn.
ĐHL
tái biên 5/11/2024
No comments:
Post a Comment