[reedited]
Vầng dương lên cao thìThành Cổ mới trở về hiện thực của nó. Cửa Hậu còn gọi là cửa Lao Xá vì Pháp xưa kia dùng giam giữ tù chính trị. Sau này Cửa Lao xá cũng như nguyên tên cũng dùng để giam tù. Cửa Lao xá vẫn mở cho đến năm 1967 thì bị lấp kín sau khi phía Mặt Trận đánh và giải thoát gần 150 người tù. Tôi nhớ đêm hôm đó, nằm trốn dưới gầm giưong tôi run như cầy sấy, ngoài đường Ngự tức con đường kiệt chạy thẳng tắp về đồng An Tiêm, tiếng chân những người tù được giải thoát chạy rầm rập . Ông tỉnh Đông cũng được giải thoát, tờ mờ sáng ông lại chạy lui ngồi trước hiên nhà cậu tôi tức nơi tôi ở. Ông tỉnh Đông lúc này bận bộ đồ tù màu đen cả nhà tôi không biết là ai nên rất sợ hãi, sau này mới nghe nói là ông. Giải thoát hơn trăm người tù nhưng phía Mặt trận cũng bị chết hơn mười người.
Ngược thời gian trở về quá khứ, tôi nhớ về thành phố xa xưa Quảng trị trong mờ nhạt như khói sưong, như ẩn hiện với những gì còn sót lại trong ký ức một ngưòi xa xứ .
Hàn mặc Tử từng viết,"Ở đây sưong khói mờ nhân ảnh" để ca tụng cái đẹp mơ màng của cái xóm vắng cô liêu mang tên Vỹ Dạ xứ Huế, thì đối với tôi Thành Cổ năm xưa đó những sáng mù sương ẩn hiện mang dáng dấp thần tiên như bức tranh xưa trong hùng sử Việt .
Xóm tôi ở có Cửa thành Lao Xá hay Cửa Hậu trong làn sương sớm, với trí tưởng tưởng tuổi thơ - tôi mường tượng trong cổng thành uy nghiêm kia có những vị tướng cùng muôn ngàn tinh binh gươm giáo đầy trời. Trong thinh không vắng vẻ của ban mai mặt hồ quanh Thành bồng bềnh một màu trắng đục những đám sương làm trí tưởngtưởng của tôi xa thêm: cái cổng thành y như cái cổng"THIÊN ĐÌNH" trong truyện tranh tôi hay đọc vậy.
Xóm tôi ở có Cửa thành Lao Xá hay Cửa Hậu trong làn sương sớm, với trí tưởng tưởng tuổi thơ - tôi mường tượng trong cổng thành uy nghiêm kia có những vị tướng cùng muôn ngàn tinh binh gươm giáo đầy trời. Trong thinh không vắng vẻ của ban mai mặt hồ quanh Thành bồng bềnh một màu trắng đục những đám sương làm trí tưởngtưởng của tôi xa thêm: cái cổng thành y như cái cổng"THIÊN ĐÌNH" trong truyện tranh tôi hay đọc vậy.
Vầng dương lên cao thìThành Cổ mới trở về hiện thực của nó. Cửa Hậu còn gọi là cửa Lao Xá vì Pháp xưa kia dùng giam giữ tù chính trị. Sau này Cửa Lao xá cũng như nguyên tên cũng dùng để giam tù. Cửa Lao xá vẫn mở cho đến năm 1967 thì bị lấp kín sau khi phía Mặt Trận đánh và giải thoát gần 150 người tù. Tôi nhớ đêm hôm đó, nằm trốn dưới gầm giưong tôi run như cầy sấy, ngoài đường Ngự tức con đường kiệt chạy thẳng tắp về đồng An Tiêm, tiếng chân những người tù được giải thoát chạy rầm rập . Ông tỉnh Đông cũng được giải thoát, tờ mờ sáng ông lại chạy lui ngồi trước hiên nhà cậu tôi tức nơi tôi ở. Ông tỉnh Đông lúc này bận bộ đồ tù màu đen cả nhà tôi không biết là ai nên rất sợ hãi, sau này mới nghe nói là ông. Giải thoát hơn trăm người tù nhưng phía Mặt trận cũng bị chết hơn mười người.
Nhớ về Cửa Hậu tức là tôi phải kể cái mốc thời gian trước1967 vì khi này tôi nhớ đến cái cổng thành tụi con nít như chúng tôi hay vô chơi. Mấy chú Bảo An gác thành không e ngại gì lũ nhỏ- chú đã quen mặt. Thế là tụi tôi vào thành cùng với lũ bạn con lính leo lên Thành Cổ chơi. Bức tường thành dày ơi là dày! thảo nào đất ngoài thành tạo thành cái hồ to lớn bao quanh . Bức tường thành như một con đê cao có con đường nghiêng nghiêng cho bọn tôi leo lên. Ngó ra xóm Hậu, hướng về đồng An Tiêm , bờ tre cong cong mờ nhạt. Tụi tôi khoan khoái biết mấy. Có đụncát cao ai đổ sát chân thành phía ngoài, chúng tôi thi nhau đứng trên thành nhảy xuống, lại chạy vào thành leo lên nhảy tiếp. Mấy chú Bảo An gác thành đứng ngó theo chỉ cười , chẳng la rầy chi.
Có hai cái chái nhà tạm lợp tôn cho những ngày thăm nuôi tù ngoài con đường Lê văn Duyệt. Từng toán người tù lần lượt được mấy chú lính dẫn qua cái cầu gạch cong cong mới ra được ngoài đường cùng gặp thân nhân ở hai cái chái tồn kia. Những giỏ đồ ăn, những miếng lá chuối đựng quà , những mo cơm, những lời nói năng tâm sự, tôi tò mò đứng bên này đường nhìn qua. Hình ảnh lưu luyến của người nhà từ dưới quê- những miếng cơm mang nặng hơi hám ruộng đồng , những giây phút ngắn ngủi, những người tù phải chia tay vào lại thành để người khác ra. Khi cổng sắt khép lại, bên trong là một thế giới khác và ngoài này là xóm Cửa Hậu thân thương muôn thuở của chúng tôi, những ngày vui chơi hồn nhiên ăn học. Có những đêm chơi đá lon ngoài ngả ba ngó vô cổng thành, tôi nghe tiếng kẽng đổi gác quanh thành, tôi còn nghe rõ mồn tiếng con chim cuốc đều đặn kêu mãi dưới hồ .
Sáng lại cửa thành lại mở, có một toán đông tù ra cổng, họ đi làm 'cỏ vê' (corvee) tức là đi làm tạp dịch ngoài tòa tỉnh hay mấy cơ quan công sở nào đó. Xế trưa toán tù đi về. Khi họ về tôi còn nhớ hình ảnh chiếc xe kéo nhốt mấy con chó vô chủ chạy rong ngoài đường. Chúng bị mấy người tù bắt đem vô thành. Thời này chó chạy rong ngoài đường là có lệnh bắt vì thiên hạ sợ chó dại cắn vô cùng. Nhắc đến đây tôi lại nhớ hình ảnh cái thòng lọng bằng kẽm và bàn tay thiện nghệ của một người tù cùng tiếng kêu "ăng ẳng" của mấy con chó bị bắt; chắc rằng mấy con chó vô phúc sẽ không còn có ngày trở lại !
Hình ảnh đoàn tù đi làm 'corvee' ngày đó làm tôi nhớ đến cái chết của anh Thủ con bác Trữ trong xóm ông Cai Ngữ. ( ông Cai Ngữ tức là ông thân của anh Khanh, anh Sỏ,anh Thăng ) : Khi chú lính dẫn tù về anh Thủ chạy ra gây hấn với chú lính này vì những ngày anh Thủ này ở tù trong Lao xá hai người có tư thù với nhau . Khi ra tù anh Thủ chờ dịp chú lính này dẫn tù ngang qua xóm mới chạy ra gây hấn. Rũi thay gặp cơn nóng giận lại sẵn mang súng chú lính đuổi theo anh Thủ vào tận trong xóm. Những phát đạn từ khẩu súng thompson cùng hình ảnh anh Thủ nằm thoi thóp , thân hình lực lưỡng chỉ một cái quần đùi. Anh chết trên nền nhà bác Lê bá Oa ông thân anh Lê bá Lư. ( nhà ở sau kế nhà Bích Hường cùng nhà cậu tôi) XómHậu chúng tôi mất anh Thủ là mất một giọng ca vọng cổ " rất mùi", chỉ tiếc anh ham chơi mới có kết quả bi thảm đó. Nói lan man qua xóm ông Cai Ngữ. thì phải kể đến anh Sỏ em anh Khanh và anh của anh Thăng; anh Sỏ vào đại học Huế anh chưa ra sư phạm ngay mà học thêm cao học toán. Nhớ đến anh Sỏ, tôi nhớ đến mặt anh khi nào cũng đỏ gay như uống rượu, cái áo sơ mi trắng khi nào anh cũng 'xuề xòa' bỏ ngoài, cùng dáng anh đi nhanh thoăn thoắt. Thời buổi này trai tráng trong thôn ai cũng lên đường tòng quân dù ở phía nào cũng phải tuân hành lệnh chính phủ trên ban. Trường hợp theo đuổi học vấn lên cao như anh Sỏ thì phải là hiếm. còn những chàng trai khác tuy theo binh nghiệp nhưng vì hiếu học nên tầng lớp thanh niên này cũng làm quan khá đông "mai vàng mai trắng nở đầy ve áo" . Ngang trang lứa tôi cũng đông lại tiếp tục nối nghiệp đàn anh 'theo bước quân hành". Cũng có một ít tiếp tục học hành nhưng tỷ lệ nhỏ hơn số người phải 'gác bút nghiên'.
Tôi cứ lan man phải trở về chuyện Thành Cổ...
Cửa Hậu chỉ mở cho đến 1967, còn cửa Hửu tức là cổng thành Đinh công Tráng mở cho đến ngày tan nát. Ngoài ra 2 cửa, tức là cửa Tả ngó ra đường Duy Tân, Cửa Tiền ngó ra đường Lê thái Tổ thì bị đóng từ lâu. Nhắc đến Thành thì phải nhắc đến cái hồ bao quanh thành. Đến mùa nước lên tức là mùa lũ của con sông Thạch Hãn nước tràn vào hồ lênh láng làm khổ những dãy nhà xây sát bờ hồ. Đất hẹp người đông dĩ nhiên hồ Thành cũng bị lấn nhưng chuyện này cũng giúp cá trong hồ sinh sôi nảy nở rất nhiều. Lúc mùa khô về, khi hồ Thành chỉ còn xâm sấp nước cùng màu xanh của lục bình là lúc những người "nhà phạt" ( tù nhân) trong thành bị dẫn ra tát cá.
Xóm Hậu chúng tôi vui lây vì tiếng ồn ào họ tát nước bắt cá dưới hồ. Cá thật nhiều ! những cái thùng 'phuy' chẳng bao lâu lại đầy ắp cá , chúng đa số là cá tràu (lóc). Trên đường người dân xóm Hậu, hay cả thôn Đệ Tứ chúng tôi đứng chờ sẵn. Xế trưa khi cả trăm người tù vào lại thành cùng mấy thùng cá và cùng lúc 2 cánh cửa thành khép lại là chúng tôi a nhau xuống hồ. Lúc này tiếng ồn ào huyên náo của dân lại còn gấp mấy lần lúc sáng. Người ta chia nhau từng lô tát thật cạn nước để mò lại cá. Có đứa mò thật tài chỉ chút chi là được mấy con tràu to bằng cán rựa. Có đứa giỏi hơn bắt được cả mấy con lươn dài ngùng ngoằn vàng hươm. Tôi sợ nhất mấy con rô - con hẽn (cá trê) cái ngạnh, cái kỳ của chúng nhọn hoắt làm chảy cả máu tay. Lớp bùn dày dưới hồ này nó còn tiềm ẩn bao nhiêu con cá chưa bắt được nhưng nó không thoát được những bàn tay mò cá giỏi cùng tính chịu khó của người dân thôn tôi. Bà con trong xóm a nhau tới coi con tràu to nhất nó bị quăng ngay lên bờ vì nếu để nó vùng vằng lâu sẽ truột khỏi tay và trốn thoát dưới bùn. Lại thằng Mẹo! hắn việc chi cũng tài ! con tràu to nhất là của nó; sau khi quăng con tràu lên bờ nó vọt theo đè cả người lên con cá đang vẫy vùng muốn trườn lại xuống bùn. Nói chung cá và hồ là sở hữu của Thành, người dân không có quyền chi. Thế nhưng ngày tát cá thu nguồn lợi từ cái hồ trước mặt cửa Lao xá thì quân dân ai cũng có phần. Mùa khô thực sự đến thì người tù Lao xá lại ra trồng rau muống để có thêm rau xanh .
Xóm Hậu chúng tôi vui lây vì tiếng ồn ào họ tát nước bắt cá dưới hồ. Cá thật nhiều ! những cái thùng 'phuy' chẳng bao lâu lại đầy ắp cá , chúng đa số là cá tràu (lóc). Trên đường người dân xóm Hậu, hay cả thôn Đệ Tứ chúng tôi đứng chờ sẵn. Xế trưa khi cả trăm người tù vào lại thành cùng mấy thùng cá và cùng lúc 2 cánh cửa thành khép lại là chúng tôi a nhau xuống hồ. Lúc này tiếng ồn ào huyên náo của dân lại còn gấp mấy lần lúc sáng. Người ta chia nhau từng lô tát thật cạn nước để mò lại cá. Có đứa mò thật tài chỉ chút chi là được mấy con tràu to bằng cán rựa. Có đứa giỏi hơn bắt được cả mấy con lươn dài ngùng ngoằn vàng hươm. Tôi sợ nhất mấy con rô - con hẽn (cá trê) cái ngạnh, cái kỳ của chúng nhọn hoắt làm chảy cả máu tay. Lớp bùn dày dưới hồ này nó còn tiềm ẩn bao nhiêu con cá chưa bắt được nhưng nó không thoát được những bàn tay mò cá giỏi cùng tính chịu khó của người dân thôn tôi. Bà con trong xóm a nhau tới coi con tràu to nhất nó bị quăng ngay lên bờ vì nếu để nó vùng vằng lâu sẽ truột khỏi tay và trốn thoát dưới bùn. Lại thằng Mẹo! hắn việc chi cũng tài ! con tràu to nhất là của nó; sau khi quăng con tràu lên bờ nó vọt theo đè cả người lên con cá đang vẫy vùng muốn trườn lại xuống bùn. Nói chung cá và hồ là sở hữu của Thành, người dân không có quyền chi. Thế nhưng ngày tát cá thu nguồn lợi từ cái hồ trước mặt cửa Lao xá thì quân dân ai cũng có phần. Mùa khô thực sự đến thì người tù Lao xá lại ra trồng rau muống để có thêm rau xanh .
Từ cửa Hậu đi về hướng Thạch Hãn nhìn vào Thành có cài chòi canh cao ngất xây từ thời Pháp không còn dùng. Cái chòi này từ An tiêm Nại cửu ngó lên thành phố vẫn thấy nó . Ngày xưa khi học lớp nhì tôi theo mấy đứa bạn qua cổng cửa Hữu,vào thành., đứng gần cái chòi 4 cột bằngbê tông này khi nhìn thấy mấy cái thang sắt đã hoen rỉ cái còn cái mất tôi yếu vía đâu dám leo lên . Phía chân cái chòi cao này, sau này là trại gà, có ngõ trổ ra ra đường Lê văn Duyệt, có cái hồ nuôi cá Phi rồi mới leo lên đường. Phía ngoài này,đường Lê v Duyệt qua nhà ông Đội Chức có mấy cây đào lựu lâu năm rậm rạp người ta đồn có tinh (tứclà ma cái) . Dân trong thôn thêu dệt chuyện con ông Đội Chức 'điên tàng" vì"lấy tinh", thiên hạ 'thêm mắm thêm muối' rằng đêm khuya đi ngang MiếuĐôi còn nghe tiếng ru con nữa mới là rùng rợn! Nói gì thì nói ngay ngả ba Lê vănDuyệt múi Trần hưng Đạo đối diện Miếu Đôi này ngày đó có một bãi tha ma ông bà kể lại Tây bắn tù chính trị chôn ở đây. Sau này bãi tha ma thành những nấm mồ vô chủ theo ngày tháng đất đá mòn dần không ai hương khói. Ngoại trừ mấy ngôi mả bằng đá có người nói là mả Nhật thì không bị thời gian phá hoại thôi. Tôi còn nhớ cảm giác khi nào cũng "ơn ớn" mỗi lúc đi học trường Nam ngang qua Miếu Đôi và bãi tha ma này. Miếu Đôi cạnh 'xóm Heo", tên xóm này người dân trong thôn tự đặt với nhau lâu ngày quen miệng thôi. Sau này ai cũng đở sợ Miếu Đôi vì ngày rằm nhóm "THIÊN TIÊN THÁNH GIÁO" của ông Tư mô đó trên phố (nghe là bồ củabà chủ tiệm PHương Mai cạnh Mỹ phát) năng về làm lễ trong miếu này. Đi học ngang qua tôi có ghé vô miếu coi. Ông Tư lúc nào cũng giả trang làm "BÀ" cùng các bà kia kia ,là mấy bà thật sự nhưng đã mê cái đạo này rồi, phấn son lòe loẹt, tiếng 'cóc xèng xèng", tiếng ông Tư lên đồng, cùng khói hương nghi ngút làm tôi hết cả sợ khi ngó con lân đúc nổi trên tấm bình phong trước miễu - hai con mắt "ma quái" cuả nó như đang 'lom lom' nhìn tôi . Bà ngoại tôi có kể rằng, mạ tôi ngày xưa hồi nhỏ có một hôm đi theo ngoại tôi, mạ tôi đi sau ngoại tôi chợt linh tính sao nhìn vô trong miếu thấy một khuôn mặt như mặt mèo, 2 con mắt xanh lè. Mạ tôi sợ cứng cả người á khẩu không kêu lên gì được, về nhà bà ngoại tôi vuốt tim xoa dầu "hú ba hồn bảy vía" rất lâu mạ tôi mới hoàn hồn. Từ câu chuyện ngoại kể lại nên lúc nào đi học ngang Miếu Đôi tôi cũng sợ. Nhìn mấy chùm đào lựu xum xuê trái trên mấy cành cao che phủ nóc miếu tôi chẳng 'dám thèm" cúi đầu đi thẳng. Chỉ khi qua nhà ông đại úy Đối có mấy đào tiên đo đỏ ló ra ngoài bức tường rào mới có gan kiếm vài trái thôi.
Tiếng là "BỐN NGẢ ĐƯỜNG THÀNH" nhưng theo ý tôi con đường Lê văn Duyệt là vui nhất. Trước tiên vì nó có sinhhoạt của người tù ra vô hàng ngày qua cổng Lao Xá , có lính tráng ra mua bán, sau tôi phải nhắc đến một gánh hát bội nghèo nàn tên là HOA MAI của ông ĐƯƠNG. Gánh hát bội này 'đóng quân lâu dài' trước mặt nhà ông Đội Chức nơi cái bãi đất làm sân bóng trong thôn. Ông Đương và đoàn Hoa Mai của ông rất nghèo, nghèo đến nỗi cả đoàn không còn tiền để về lại quê huơng xứ Quảng của ông. Lúc đầu người dân thôn tôi còn tiền coi dần dà hết tiền khách vắng dần. Hồi đó tôi cũng mê hát bộ đoàn Hoa Mai này lắm vì suy cho cùng cón có cái thú nào hơn? Rất lâu mới có 1 đoàn chiếu phim công cộng hay rất lầu mới có đoàn cải lương trong Nam ra đây, nhưng tôi làm gì mua nỗi cái vé đắt tiền cho đoàn THủ Đô hay Hương Mùa Thu, Thanh Minh Thanh Nga dạo đó? Ông bà Đương đóng đủ vai từ Phật THÍCH CA, quan Âm thịKính, cho đến Quan công Trương Phi ông cũng đóng tuốt! Tôi nhớ về tiếng trống cầm chầu của mấy cụ già cùng mấy dồng bạc quăng lên sân khấu thuởng cho diễn viên, với cái dáng lom khom của mấy đứa nhỏ chạy ra lượm tiền . Đoàn Hoa Mai ở lâu quá, tài tử"đẻ thêm con" , túi tiền dân thôn tôi lâu ngày cũng cạn và sự tò mò háo hức cũng tan đi khi nhìn thấy bà bầu tức vợ ông Đương cùng những bà vợ mấy ông kép khác ngày ngày ra chợ không còn "hình dáng mỹ miều" như lúc đóng tuồng mà là những bà đào về chiều già nua đến thảm thiết. Những đêm mưa vắng khách tiếng ông Đương van nài "xin quý vị coi giúp cho đoàn tôi vì mùa đông mưa gió tội nghiệp!!!" cái buồn cái áo não thêlương của một đoàn hát "về chiều bị mắc kẹt" lại một xóm nghèo ngày xưa đó là một dấu ấn khó quên cho cuộc đời nghệ sĩ, những cảm nhận đáng thương cho những ai làm văn hóa mà cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đáng lẽ họ phải được nâng đỡ và bảo trợ cho những công việc bảo tồn giềng mối đạo đức phong hóa dân tộc .
Tiếng là "BỐN NGẢ ĐƯỜNG THÀNH" nhưng theo ý tôi con đường Lê văn Duyệt là vui nhất. Trước tiên vì nó có sinhhoạt của người tù ra vô hàng ngày qua cổng Lao Xá , có lính tráng ra mua bán, sau tôi phải nhắc đến một gánh hát bội nghèo nàn tên là HOA MAI của ông ĐƯƠNG. Gánh hát bội này 'đóng quân lâu dài' trước mặt nhà ông Đội Chức nơi cái bãi đất làm sân bóng trong thôn. Ông Đương và đoàn Hoa Mai của ông rất nghèo, nghèo đến nỗi cả đoàn không còn tiền để về lại quê huơng xứ Quảng của ông. Lúc đầu người dân thôn tôi còn tiền coi dần dà hết tiền khách vắng dần. Hồi đó tôi cũng mê hát bộ đoàn Hoa Mai này lắm vì suy cho cùng cón có cái thú nào hơn? Rất lâu mới có 1 đoàn chiếu phim công cộng hay rất lầu mới có đoàn cải lương trong Nam ra đây, nhưng tôi làm gì mua nỗi cái vé đắt tiền cho đoàn THủ Đô hay Hương Mùa Thu, Thanh Minh Thanh Nga dạo đó? Ông bà Đương đóng đủ vai từ Phật THÍCH CA, quan Âm thịKính, cho đến Quan công Trương Phi ông cũng đóng tuốt! Tôi nhớ về tiếng trống cầm chầu của mấy cụ già cùng mấy dồng bạc quăng lên sân khấu thuởng cho diễn viên, với cái dáng lom khom của mấy đứa nhỏ chạy ra lượm tiền . Đoàn Hoa Mai ở lâu quá, tài tử"đẻ thêm con" , túi tiền dân thôn tôi lâu ngày cũng cạn và sự tò mò háo hức cũng tan đi khi nhìn thấy bà bầu tức vợ ông Đương cùng những bà vợ mấy ông kép khác ngày ngày ra chợ không còn "hình dáng mỹ miều" như lúc đóng tuồng mà là những bà đào về chiều già nua đến thảm thiết. Những đêm mưa vắng khách tiếng ông Đương van nài "xin quý vị coi giúp cho đoàn tôi vì mùa đông mưa gió tội nghiệp!!!" cái buồn cái áo não thêlương của một đoàn hát "về chiều bị mắc kẹt" lại một xóm nghèo ngày xưa đó là một dấu ấn khó quên cho cuộc đời nghệ sĩ, những cảm nhận đáng thương cho những ai làm văn hóa mà cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đáng lẽ họ phải được nâng đỡ và bảo trợ cho những công việc bảo tồn giềng mối đạo đức phong hóa dân tộc .
Thời gian trôi mau, "sương gió phôi pha bóng nguyệttà" như câu xưa của Hàn Tín. Bức tường thành rêu phong phủ kín di tích Quảng trị chỉ còn đọng lại trong ký ức con người.
Kể lại cho thế hệ sau tôi hi vọng với trí tưởng tượng phong phú của tuổi nhỏ, một THÀNH CỔ uy nghi từng mang tên tướng quân Đinh công Tráng sẽ hiển hiện lên cùng thanh âm của tiền nhân trong dĩ vãng .
CALI ngày 6 tháng 11 năm 2011
Đinh trọng Phúc
No comments:
Post a Comment