MỤC LỤC
1- NHỚ TRIÊNG BÚN XÁO
2- LÒ HEO QUAY Ô PHỤNG HẠNH HOA THÔN
3- CÁI GIẾNG NƯỚC UỐNG HẠNH HOA THÔN
4- CAM LỘ BAO NÉT MỜ PHAI TRONG KÝ ỨC TÔI
5- LÒ GẠCH NGÓI TRƯƠNG KẾ
====================================
NHỚ TRIÊNG BÚN XÁO
Từ hình ảnh Chiếc Xe Phở năm xưa dưới khung trời Quảng Trị được nhắc lại trong niềm nhớ dịu dàng nhưng da diết lại được sự hưởng ứng từ những đồng hương Quảng Trị và đồng môn Trường Trung Học Nguyễn Hoàng.
Nào cái tên "Phở Ông Ngẫu, Hột Vịt Lộn ô. BA ở Xóm Cột Điện 192.
Rồi bạn đọc đồng môn còn góp ý thêm: Có cháo Bánh Canh vịt của THÍM HIA vợ thầy Bồi xóm Heo, có ĐẬU Hũ CỦA NHÀ hai CHỊ THA BA. Có Bánh Ướt nhà chi Nghệ em anh Nguyễn Lam , nhà TỐNG THỊ HUÊ cũng có bánh ướt, - quán THIỆN TÍN: Bún, Cháo lòng, cháo bò, tiết canh, món nhậu ...
Rồi "Chiếc xe phở này đẩy bán khắp thị xã. Có lẽ đây là cái xe phở độc nhất của thị xã QT. Chừ vẫn còn nhớ cái thơm ngon của đĩa xí quách phở vào buổi chiều tối"
Người khác lại nhắc thêm "Ôn Vọi ni nhớ cái xe phở của ai hè?
Còn phở của ôn Vịt xóm mình là ôn gánh phở đi bán trên phố
Tui ăn chừ vẫn còn nhớ mùi không nơi nào giống phở ôn Vịt
Nhớ luôn lát chả tron tròn mỏng và những sợi tiêu mịn rắc lên trên ..nước pho trong veo.."
Những mệ những O những chị năm xưa đó nay phần nhiều đã nắm tay nhau về khung trời miên viễn còn lại trong ký ức chúng ta một khoảnh trời Quê Hương chìm sâu trong cát bụi thời gian.
ĐHL xin tiếp nối một bài viết miêu tả Triêng Bún Xáo Mụ Đức mà chị Thạnh vừa nhắc ở trên
***
Thời nay khi nhìn lên màn hình TV có nhiều chương trình ẩm thực của thế giới rất đặc sắc. Sự phong phú ẩm thực hiện tại có cả Việt Nam chúng ta. Nhưng nhìn chung sự phong phú, đặc sắc này phần nhiều đều nhờ vào sự giàu có về vật thực, thừa mứa phương tiện mọi mặt để hình thành nhiều món ăn độc đáo.
Ngày xưa có những nét độc đáo ý vị của món ăn nhưng lại bị 'ép mình' vào trong vấn đề nghèo, hạn hẹp phương tiện cũng như vật chất. Nhưng trong bao nét mộc mạc ngày xưa lại toát lên tính khéo léo, nhẩn nại của bàn tay nội trợ của người phụ nữ Việt Nam những người mẹ dấu yêu muôn thưở.
Triêng bún xáo hay gánh bún xáo là hình ảnh quen thuộc cho khách ăn hàng vặt. Bữa sáng, bữa chiều đều có triêng bún do các o gánh đi bán rong dọc mấy con phố hay đầu thôn, cuối kiệt ngoại ô.
Người Huế chắc ai cũng quen mắt hình ảnh triêng bún xáo. Người Quảng trị cũng chẳng lạ lùng chi cái cảnh mấy o, mấy chị vừa chạy lúp xúp vừa rao:
-Ai bún bò?
Tiếng rao có khi bị mấy o rút bớt,
-Ai ...bún?
Nhưng chẳng hề chi, nghe tiếng o là khách ăn biết ngay rồi.
Khó diễn tả cái động tác o gánh 'triêng' bún ra sao? cũng không phải chạy, nhưng đi lại không phải đi? Thứ động tác hai chân o làm sao cho chiếc đòn gánh cong cong, vẫy nhịp thật đều theo bước chân, vừa nhanh vừa nhẹ bớt sức nặng trên vai.
Có điều nguời viết muốn mô tả cho thật rõ ràng, o chẳng khi nào "trở vai" khi gánh. O chỉ thuận một bên vai. Những lúc có khách là lúc gánh bún đuợc đặt xuống cho vai o đuợc nghỉ, thế thôi. Có thể vai bên phải, o đã chịu đựng lâu ngày nên thành thói quen.
Tôi không bao giờ thấy mấy o người Huế hay ngay cả Quảng Trị bận áo cụt đi bán hàng. Gánh triêng bún ra đuờng là các o bận áo dài. Ngày xưa là vậy, đàn bà đi chợ, hay ra khỏi nhà là có cái áo dài; có cũ chi cũng có cái áo dài. Những chiếc áo dài bạc màu, sờn rách theo năm tháng o ruổi rong theo 'cơm gạo áo tiền' nuôi sống gia đình.
Nhớ làm sao những tô bún bình dân, đáy nhỏ miệng to ngày xưa đó. Khách ăn hàng đủ hạng người. Người có tiền thì ăn tô 5 đồng, ai bình dân thì ăn tô 3 đồng; thậm chí con nít o cũng bán cho 'chút chút' tô 2 đồng. Gánh bún xáo của o bán đủ giá; o không hề than vản và khách ăn chẳng ai 'nề hà' chi. O vẫn chiều lòng khách.
Bàn tay khéo léo, o múc theo tiền mua- hai, ba đồng nhiều nhất là năm đồng. Vài lát thịt bò pha gân, nhai sần sật. Hai ba miếng huyết, bún bò không thể thiếu huyết. Làn nuớc mỡ đỏ thẳm nằm trên, chưa và miếng bún vào miệng đã cảm nhận vị cay rồi. Tiền nào của đó. Biết vậy, nhưng giá nào cũng trân trọng tô bún từ tay o đưa cho. Một chút hành ngò rau răm cắt mịn, o bỏ thêm lên mặt, chính xác, vừa đủ, thế mà thiếu nó là biết ngay. Từ cọng bún, miếng thịt, tí huyết, chút nuớc màu trên mặt, trái ớt, (cho nguời ghiền cay), rắc chút tiêu và thứ rau răm cắt mịn là điều bắt buộc sau cùng.
Triêng bún xáo, chiều chiều vẫn bốc mùi thơm quyến rũ. Chính đó là mùi thơm rất riêng của nồi bún xáo. Mỗi lần o giở cái nắp nồi lên, từ cuối gió khách chờ mua, biết đuợc gánh bún o tới rồi.
Những thứ thịt bò loại rẻ tiền, bạng nhạng 'nhiều mỡ ít nạc'. O chỉ ưa mua về loại hai loại ba này thôi. Vừa có đồng lời, vừa hợp với một thứ gọi là 'bún xáo'. O nói:
Người thưởng thức tô bún xáo sẽ chú ý đến chuyện phân biệt 'xáo bún' là gì? và khi ta đã hoàn thành múc thứ xáo này lên tô bún thì nó nghiễm nhiên trở thành "tô bún xáo". Nói như thế để giới rành ăn sẽ đòi hỏi rằng nước súp phở hay những thứ khác không bao giờ thay thế để làm tô bún xáo được.
Đưa tô bún nho nhỏ, vừa tay, lên miệng, khách ăn sẽ ngửi được mùi thơm nước xáo đúng 'gu' do tay người miền trung nấu không lầm vào đâu được. Thoang thoảng mùi rau răm, tiêu và miếng bún nức mùi xáo vào miệng. Rồi người ăn sẽ cảm được lát thịt bò dai xần xật, giòn, bùi bùi, xen một lát huyết đậm đà, beo béo. Người thưởng thức, vừa nhai vừa cắn miếng ớt chìa vôi thơm, cay nồng xông lên tận hốc mũi.
Cảm giác đói, thèm, càng tăng khi gánh bún của o còn mãi đàng xa, do o đang bận khách. Chiều chiều ai cũng chờ, cũng trông gánh bún đi qua. Dọc phố, các chị , các mệ cũng đợi gánh bún các o đi ngang. Có mấy o là có bữa sáng tới rồi. Mùi bún xáo phố Huế hay phố Quảng nào cũng giống nhau. Khách ăn của mấy o không bao giờ chê, chẳng bao giờ ngán mới lạ làm sao.
Có phải huơng vị cùng hình ảnh gánh bún xáo mấy o mấy chị ngày xưa đã thẩm đượm vào phong cách ẩm thực của người trung bao đời nay? Người ta chẳng hề quan tâm, chỉ một tâm lý vắng gánh bún xáo ngày đó thì nhớ, thèm đó thôi.
Hình ảnh cái nồi nhôm tròn nằm một đầu, đầu kia là tô, đũa hay những thứ linh tinh, lỉnh kỉnh. Mọi thứ đều quen nhìn trước mắt khách đợi. Thế mà khi o giở nắp nồi xáo lên, cái vá o cầm nhẹ nhàng, chính xác có thể nói là "chi ly" o chan từng thứ lên tô bún. Ôi mùi thơm của nước xáo không lầm lẫn vói bất cứ loại món ăn nào làm khách ăn nhớ hoài.
Một thời, khi cái từ "kéo ghế' đặc biệt dành cho những buổi đi vào tiệm ăn ở thành phố, hiếm hoi hơn những gánh hàng rong thân quen cho thực khách bình dân. Những mệ những o, với triêng hàng kẻo kẹt tháng ngày dọc theo từng con hẻm hay men theo các con đường dẫn vào xóm nhỏ. Trong hình ảnh những gánh hàng rong, gánh bún xáo dường như 'bất tử' trong lòng chúng ta phải thế không thưa bạn đọc?
LÒ HEO QUAY ÔNG PHỤNG THÔN HẠNH HOA
Tha La ở Trảng Bàng Củ Chi Hậu Nghĩa nhưng nghe lại bản nhạc này tạm nhớ một Hạnh Hoa Thôn Bóng Mờ Dĩ Vãng có thẻ hiện về trong thanh âm xa vời của hồi chuông họ đạo Trí Bưu Hạnh Hoa những cái tên trong quá khứ xa mờ
Đây “Tha La xóm đạo”
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh...
...
Người viết nhớ lại thời còn thụ huấn quân trường cũng là lúc Hiệp Định Paris 1973 được ký kết. Thời gian này tất cả SVSQ tất cả các quân trường VNCH đều phải đi Công Tác Thông Tin Tuyên Truyền nhằm giải thích cho dân về Hiệp Định. Vùng tác giả bài này ở gần xã Trảng Bàng, "Tha La Xóm Đạo""cái bài hát của Dzũng Chinh nghe thơ mộng, nhưng chẳng ai trong toán đi thông tin này dám mò qua. Thế là 'mù trớt' tôi gần mà chẳng biết "người em xóm đạo" là chi. Ngày đó có một danh từ gọi là "vùng 'xôi đậu" của Quận Củ Chi tỉnh Hậu Nghĩa. Đi ra đường là ánh mắt canh chừng, 'ngày mình- đêm họ', đây là sự thật. Sự dằng co càng nhiều khi hòa bình tạm thời đã ký. Nhưng lằn ranh có phân định rõ ràng đâu, thế là càng thêm rắc rối cho dân. Tôi làm gì được "tung tăng, thoải mái" đi chơi như mấy đứa bạn đồng môn Nguyễn Hoàng đã vào các khóa SVSQ và được đi "chiến dịch" ngoài trung. Nói cho cụ thể là vùng hoạt động tại các trại tạm cư chiến nạn là Trung Tâm Hòa Khánh 1973. Chúng tôi ở gần Trảng Bàng nơi có Tha La xóm Đạo trong thời gian đó là vùng không an ninh. Như thế gần mà xa, ngày ngày tôi bó gối trong căn nhà trống, công tác ít ỏi, chẳng dám đi xa và mất một dịp quý báu trong đời là tới thắm Tha La dù qua đó chỉ vài cây số...
==============================
Hướng về quê cũ, Thành Phố QT nơi có Hạnh Hoa Thôn cạnh thôn Đệ Tứ nơi tôi sinh ra cho đến lúc giã từ nó đúng mười chín tuổi. Một mùa hè đỏ lửa 1972 chắc suốt đời có lắm người QT chẳng có ai quên.
Thương về một thuở hồn quê
Gần nhà thờ của Thôn Hạnh Hoa có cái giếng nước uống lâu đời mà ai sinh ra sống cận kề con đường Lê văn Duyệt hay thôn Đệ Tứ mới biết. Người viết sinh ra và lớn lên nơi đây và sống nhờ miếng nước uống của cái giếng nước quý hóa đó mới nhớ và kể lại cho bà con cố cựu nghe chơi.
hình minh họa lại cái giếng
Từ Cửa Hậu hay cửa Lao xá nếu người xóm Hậu chúng tôi muốn tới giếng đó thì phải men theo con đường Lê v Duyệt đi về hướng góc Bầu. Gần tới nhà Ông Quản Lợ rẽ xuống con đường kiệt vào nhà Cô Hoàng, Bà Nhớ mẹ của Nguyễn Văn con đường thấp dần sẽ tới thôn Hạnh Hoa tức là gặp cái giếng. Từ cái giếng này đi theo con đường trong thôn một đoạn ngắn là tới Nhà Thờ Hạnh Hoa. Nhà thờ Hạnh Hoa ngó ra là con đường tỉnh lộ 555 từ Góc Bầu chạy về Ba Bến…Thâm Triều, Anh Kiệt, Tả Hữu Phương Lang về nữa là đến Biển Gia Đẳng
Chuyện người viết xin thưa là bà con Hạnh Hoa và Thôn (Phường) Đệ Tứ không phải không có giếng nào mà quý cái giếng nước Hạnh Hoa do mạch nước bao năm vẫn cung cấp duy nhất cho bà con gánh về mục đích duy nhất là UỐNG.
khạp đựng nước uống
Đúng vậy gánh về tới nhà, hai thùng nước này chỉ đổ vô cái khạp đựng nước uống mà thôi. Chuyện nước rửa thì ai cũng có giếng gần rồi. Gánh về rửa ráy thậm chí ra quanh giếng tắm giặt gần đó không ai phiền hà chi.
Không những từ Cửa Hậu mà xóm trên xa hơn garage ông Trương Long ông thân người bạn Trương Sừng của người viết tức là xóm nhà ông Đội Lạp, ông thân các anh Ngô Tùng, Ngô Dũng và Ngô thị Sáu. Xóm này cũng là xóm gần ngõ kiệt của bạn Tống thị Huê, vô nhà chị Thu Ba và chị Tha. Người viết kể lân la như thế là muốn nhắc lại hình ảnh một người đó là anh Báu. Nhà anh Báu tuy xa nhưng hàng ngày anh vẫn siêng năng lên tận cái giếng Hạnh Hoa này để gánh nước uống về giúp mạ. Anh Báu tuy là thanh niên trai trẻ nhưng chẳng bao giờ 'ô ngai' khi đi gánh nước đường xa. Ôi người viết cứ nhớ mãi dáng anh Báu, một người trai trẻ đi gánh nước uống Hạnh Hoa thôn. Anh gánh ‘dẻo queo’, bước chạy nhịp nhàng, trông rất đẹp mắt. Cặp thùng sắt vuông loại chứa dầu hỏa trước kia, đựng nước đầy anh Báu không quên để vào trên mặt vài miếng lá chuối để nước khỏi tròng trành. Thật lạ, chỉ có mình anh Báu từ xóm nhà ông Đội Lạp dám về tận đây để gánh cho được thứ nước giếng này. Nói gì chăng nữa, Anh quả đúng là người con có hiếu, thương mẹ già tần tảo nuôi con.
Thôn, vùng tôi ở, thông thường cứ dầu mỗi con đường kiệt hay có cái giếng. Xóm vào nhà bạn Tống thị Huê, xóm anh Báu, xóm Cửa Hậu, xóm vào nhà bạn Trần Tài chi đều có giếng. Nhưng chỉ là nước giếng giặt rửa, không có cái giếng nào có thứ nước uống quý như cái giếng Hạnh Hoa Thôn. Thời sau này bắt đầu có nước máy nhưng nước máy chỉ lanh quanh ở phố Quảng Trị chưa thể về đến con đường Lê văn Duyệt. Sau này nước máy về đến mút cuối con đường Trần Hưng Đạo tức đối diện với miếu Âm Hồn ngó chếch qua là xóm Heo, mới có cái giếng máy bà con trên đó ra lắc lắc lấy nước về dùng hàng ngày. Lũ tôi đi học trường Nam tiểu học, trên đường về cũng lắc lắc vài cái nhưng nước lên khó quá cũng bỏ qua không 'thèm' chơi nữa...
Dù không thiếu nước nhưng từ con kiệt vào nhà anh Báu cho đến góc Bầu bà con cố cựu thôn Đệ Tứ ai cũng nhớ thứ nước uống từ cái giếng Thôn Hạnh Hoa này. Mỗi lần về Hạnh Hoa người viết thường đi trẹ cho mau tức là rẽ xuốn con kiệt cạnh nhà ông Quản Lợ. Kiệt này có nhà hai bạn Nguyễn Kiệt (cháu cô Hoàng) và Nguyễn Văn (anh cô cậu với Mỹ Tín, chị Thạnh vợ đại úy Nguyễn Bích em Đại tá Bé) đều ở con kiệt này. Ngoài đường là nhà họp của Thôn Đệ Tứ có nhà mệ Cửu Mình và nhà Bác Vọng hay đi chiếc mobylette. Người mình có những luật lệ bất thành văn nhưng bà con tôn trọng một cách tự nguyện. Đi ngang cái giếng không ai canh giữ, chẳng ai coi chừng nhưng tuyệt nhiên chẳng có ai héo lánh tắm giặt làm mất vệ sinh. Thật quý hóa cho tinh thần tự giác và tôn trọng giềng mối xóm làng của bà con mình thời đó. Nhu cầu nước uống chỉ gánh về để cất dùng không ai tham lam giành giựt làm chi. Thế nên đi ngang cái giếng, tôi luôn thấy quanh cảnh yên lặng, vắng vẻ. Tại sao mà giếng uống này lại vắng vẻ? Dĩ nhiên tôi phải hiểu ra bà con trong hai thôn Đệ tứ và Hạnh Hoa chỉ gánh về để uống mà thôi.
nhà thờ Hạnh Hoa nay không còn (nguồn: Bảo Lâm/trang Đồng môn NH)
Có đôi lúc tôi mệ (bà) ngoại tôi sai đi về nhà ông Lê Diễn (có con trai là cậu Lê Thành mất trong vụ 1.11.1963), người anh chú bác với mệ ngoại tôi. Mệ ngoại tôi họ Lê (Lê thị Xấu ) người gốc Cổ Thành. Thật ra Thôn hay Làng Cổ Thành rộng hơn so với Hạnh Hoa. Bản đồ vẽ lại ở đầu bài cho chúng ta thấy rõ. Có thể Hạnh Hoa là thôn mới lập, mới đặt tên sau này chăng. Lúc mới sinh ra đời, sau này tôi chỉ nghe làng Trí Bưu làng Cổ Thành thôi, hay do tôi không để ý. Hạnh Hoa Thôn do mới nên nhà thờ Hạnh Hoa kiến trúc rất mới so với nét thâm u cổ kính của nhà thờ Trí Bưu. Hạnh Hoa qua Trí Bưu không xa nhưng phải vào bên kia con đường tỉnh lộ 555 và vào nhiều lớp hàng tre kín mít nên tôi thời đó quá nhỏ nên làm biếng đi chơi vô cùng. Đi ngang nhà thờ Hạnh Hoa tôi chỉ đứng ngoài nhìn. Thú thật vào thời đó, con người ngoại đạo đó là 'rào chắn' ngăn trở cho tôi vào thăm nhà thờ. Không ai cấm đoán tôi cả, tôi biết thế. Một nhà thờ an bình trong tầm tay, với những kiến trúc giản dị bình thường không cầu kỳ hay hoa mỹ tây phương, sao tôi không vào chơi cho biết để giờ đây hối tiếc. Sự hối tiếc muộn màng cho đến cuối năm 1973 về đơn vị tại Ba Bến chiếc GMC tiểu khu từ Diên Sanh ra ngang qua họ đạo, thôn xóm đìu hiu hoang tàn đổ nát. Ngọn gió mùa giáng sinh 1973 về trong hoang lạnh buồn tênh của một nơi thiếu bóng dân về...
Biết cái giếng nước uống Hạnh Hoa nhớ nó và nguồn nước mát ngọt của cái giếng quý hóa kia từng luân lưu trong người tôi. Ngày đó tôi còn nhỏ chẳng hề có sức để gánh nước giúp mẹ như chú Báu trên xóm ông Đội Lạp (có các anh Tùng, Dũng và Sáu). Hình ảnh người con có hiếu gánh nước uống hàng ngày giúp mạ như chú Báu cùng cái giếng nước uống Hạnh Hoa thôn là những gì tôi còn nhớ để viết về cảnh cũ người xưa hầu mua vui cùng bạn đọc hôm nay, nhất là những ai có một thời sống ở thôn Hạnh Hoa lúc đó.
khoảng thập niên 1960 nếu ai mê sách nhất là truyện võ hiệp kỳ tình dã sử VN chắc còn nhớ những bộ truyện Người Đẹp Thành Phiên Ngung, Lửa cháy Thành Tây Đô và trong ký ức người viết có một cuốn mang tên là Người Đẹp Hạnh Hoa Thôn. Một sự ngẫu nhiên và chắc chắn là ngẫu nhiên do tác giả chẳng có hàm ý gì về một "Hạnh Hoa Thôn" của Quảng Trị cả. Rồi nửa thế kỷ qua đi, cái tên Hạnh Hoa Thôn đã nằm yên trong ký ức của bao nhiêu trái tim hoài cổ. Cùng nhau nhớ về thôn xưa làng cũ mà thương cho một xóm đạo hiền hòa, cùng mái nhà thờ thân yêu lấp ló bên lũy tre làng. Khói lửa chiến tranh lướt qua một Tha La xóm Đạo nhưng rồi Tha La vẫn còn sau cơn binh lửa. Chỉ còn Hạnh Hoa Thôn nay không còn nữa, một xóm đạo ngày xưa đã đi vào lịch sử của lãng quên, ngọn gió chiều nào phất phơ qua lũy tre làng cũ nếu có ai hỏi ba tiếng Hạnh Hoa Thôn chắc chỉ nhận được một tiếng thở dài ảo não mà thôi.
====================================
CAM LỘ BAO NÉT MỜ PHAI TRONG KÝ ỨC TÔI
Hồi ký của dhl có nhắc đến Ba lòng trong "Đò Lên Ba Lòng " , Gio Linh trong "thầy Cửu Hàm Với Kỷ Niệm Gio Linh " , giờ mà không nhắc đến Cam lộ thì không "công bằng " lắm.
1959 cái tuổi ĐHL theo cha lên Cam Lộ
Thưa bạn đọc, thuở tôi còn nhỏ tôi hay lẻo đẻo theo ba tôi nên mới có nhiều kỷ niệm ở các quận của tỉnh QT là vậy. Các hình ảnh ngày xưa nay chỉ là chút nào ký ức phai mờ. Thời gian này tôi nhớ Bác Hanh làm quận phó người ta hay gọi là Ông Phó Hanh còn bác Giáo làm Q trưởng. Sau này còn có bác Nguyễn tri Kiệt tôi không chắc chắn ai làm trước, ai làm sau. Trên quận chỉ có phương tiện là chiếc Land Rover. Dưới Chi CA, cũng duy nhất một chiếc xe Jeep Willie màu xanh. Hồi này quận Cam Lộ còn đóng ở vị trí cũ. Chi CA còn lợp tranh ván , chỉ có quận là khá hơn . Cái hình tui đính kèm theo là thời tui đi theo ba tui lên quận Cam Lộ đó. Từ tỉnh QT theo Đông Hà lên khoảng 17 cây số là chiếc xe jeep xanh rẽ phải để vào quận. TỨC nhiên chỗ này phải là ngả BA ,tiếp tục lên Khe Sanh và vào CAm Lộ tức là xã Cam Thanh thì phải.
loại xe Land Rover hồi đó tương tự chiếc này
Tôi có nhiều kỷ niệm với các chú , nhân viên của ba tôi như chú Thúc ba tôi khen bắn súng COLT rất "cừ " , thân sinh của Cam Thanh tức là bác Toàn (?!), chú Khoai , chú Huấn lái xe cho ba tôi cho đến sau lúc ba tôi đổi vô quận Hải Lăng 1964, chú Lê mậu Để bắn súng Carbine số MỘT.. Bác Mãng hiện còn ở trên dốc Tân SƠN Hàm Tân không biết bác còn không ?nhiều lắm !
chiếc Jeep Willy màu xanh da trời , nhưng có bạt che dành cho chi CA
Đến bữa trong Chi ra ăn cơm tháng ngoài nhà mẹ của Cam Thanh nấu ? Tôi là đứa nhỏ chạy lanh quanh , mẹ Cam Thanh nói giọng Bắc , các chú đều đứng dậy mời nhau dùng bữa xong mới ngồi xuống. Trí nhớ của tôi còn đậm nét chuyện này vì tôi làm chuyện rất nghịch rất có lỗi với chú Khoai cho đến giờ hơn 50 năm sau tôi vẫn còn nhớ cái "tội" này . Thưa bạn đọc, có một bữa trưa trong Chi CA ra nhà mẹ Cam Thanh ăn cơm trưa, chờ lúc mọi người đứng dậy mời nhau dùng bữa tôi mới nhè nhẹ "kéo" cái ghế của chú Khoai lui. Khi chú Khoai ngồi xuống chú "ngã chanh chòng" thật tội. Chú xanh mặt , nhưng chú rất thuơng tôi còn nhỏ dại và đứa nhỏ độc nhất trong chi cho các chú bác "cưng" không nói gì. Chỉ có tôi mang cái lỗi này "tận mấy mươi năm" còn ân hận với chú Khoai. Chú Khoai giờ không biết còn mất . Tuổi chú chỉ thua ba tôi vài tuổi thôi. Người gốc Cam Lộ và sống gần quận hồi đó chắc ai cũng biết chú Khoai. Chú Huấn nghe Đinh thị Hiệp nói giờ vẫn còn. Chỉ có ba của Cam Thanh mất sớm. Hồi đó bác đang bửa củi thì bị đứt mạch máu mà mất. Bác hiền lành lắm, trong Chi ai cũng thuơng và ba tôi thuơng bác lắm. Chuyện bác bị tai nạn thì sau này tôi về QT mới nghe. Ngoài bác Toàn còn bác Mãng sau 1975 sống gần ba tôi ở Tân Sơn, Tân Thiện, chú Lê mậu Để cũng ở vùng này. Bác Thúc bị bắt cóc và ra tận ngoài Bắc sau 1975 mới được tha vô, sau này chú Thúc đi Mỹ nhưng cũng mất rồi...
Kỷ niệm Cam lộ tôi không có với Cùa do hồi đó không ai dám qua Cùa. Người viết được nghe nói về thứ đất màu đỏ làm đồn điền hợp với cà phê, tiêu. Nghe đâu có đồn điền ông Tây xưa nay không còn nữa.
Tôi không được may mắn, nói đúng ra do vấn đề an ninh nên chưa bao giờ ra dòng Hiếu Giang tự do thoải mái tắm gội như thời này. Chuyện an ninh thì ai cũng hiểu, đó là lý do chính yếu. Một thời gian lên sống tạm ở quận, tôi chẳng dám đi đâu xa. Hơn nữa tôi luôn sống trong Chi và gần quận để được bảo vệ. Một thời xe cộ là thứ quá hiếm hoi. Tôi chẳng biết người mình có phương tiện gì từ Đông Hà lên Cam Lộ? Ngoài quân đội ra, hành chánh thì ngoài chiếc Land Rover, và chiếc xe jeep xanh của Chi tôi không thấy chiếc xe 4 bánh nào. Khu thị tứ lèo tèo vài nóc nhà quanh quận. Những xã mang tên Cam Thanh, Cam Hiếu, Cam Hưng... được an ninh, gần quận bảo vệ. Cam Lộ còn nhiều xã nữa tôi không nhớ bằng lúc tôi ở trong chi CA tại quận Hải Lăng năm 1965 thì trí nhớ tôi tốt hơn vì lúc đó tôi đã học lớp Nhất rồi.
Ôi kỷ niệm ngày xưa, nhớ lắm. Tôi sinh ra đời sống và lớn lên trong lòng quê ngoại QT. Nhớ sao những bước chân, một thằng bé lẻo đẻo theo cha. Giờ những bậc cha, chú nay đã về với người thiên cổ. Khi nhớ lại tôi muốn kể lại cho nhau nghe, trong lòng mình chỉ mong đó là những phút nhớ về những người thân mến nay tất cả đang ở tận đâu trong phương trời miên viễn, thật xa./.
LÒ GẠCH NGÓI TRƯƠNG KẾ
viên ngói móc thời trước 1972 gia đình ông Trương Kế còn giữ làm kỷ vật (hình dưới)
No comments:
Post a Comment