Đêm naу thu sang cùng heo maу
Đêm naу sương lam mờ chân mâу
Thuуền ai lờ lững trôi xuôi dòng
Ɲhư nhớ thương ai chùng tơ lòng ...
(Con Thuyền Không Bến/ Đặng thế Phong)
Xế chiều, người kể còn nhớ chú Vân, chú lái xe tracion Qt-Huế về là ghé quán mạ tôi, uống một ly rượu thuốc trước khi vô nhà. Khách rượu thuốc quán mạ tôi còn có bác Cai Trà, bác Thuần. Nhà Chú Vân, đi một khoảng xa ngó ra cánh đồng lúa An Tiêm và hạnh Hoa. Nhà chú ở một bên đường Ngự, đối diện với nhà Ông Lâm tức là ba chú Tùng và chị Dao ...
Sau lưng là trường Ấp tân Sinh mới được xây một dãy dài.
Xóm Cửa Hậu càng lúc càng đông. Đồng bào tản cư tránh chiến tranh, vợ con lính càng lên nhiều và xây liên tục nối xa tận ngoài đồng kể không hết.
Sau trước 1967 có thêm Đại Đội Chiêu Hồi lập gần nhà Ông Nguyễn tri Duyến, (ông thân của các chị Đoàn, chị Liễu) nên đồng ruộng càng bị lấn đất dần nhưng quang cảnh càng vui thêm.
Giờ để tiếp nối, mời bạn đọc và những người quen biết "đi một chuyến tàu tưởng tượng" , hình dung lại xóm Cửa Hậu xa xưa trong bài HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ này...
TRÊN TRANG BLOG tôi viết đến đây chắc bạn đọc ít ai biết. Đó là con đường gắn liền với tôi lúc sinh ra lớn dần lên một thời niên thiếu trước Cửa Lao Xá mà nay đã thực sự mất tên, và bị lấp mất bởi nhà cửa người ta xây lên trên. Đã thế con đường Lê văn Duyệt cũng vô cớ bị xóa tên. Theo sử thì tả quân Lê văn Duyệt cũng là một võ tướng thời xưa công tội là chuyện của nhà Nguyễn , đến đời Thiệu Trị cũng được phục danh và cái Lăng Ông to lớn ai ở Sài Gòn mà chẳng ghé một lần trong đời.
Đường Phan đình Phùng đã có trong lịch sử thành phố QT xa xưa rồi, việc tréo ngoe chồng lên con đường Lê v Duyệt thì không hay chút nào.
hình người viết chụp cho cậu ruột Võ đình Cư vào năm 1969. Cậu tôi đang đứng chính ngã ba Lê văn Duyệt và lối vô Cổng Thành Cửa Hậu (sau 1967 bị lấp kín do vụ tấn công vào Cửa Hậu)- cậu tôi đang ngó thẳng ra con ĐƯỜNG NGỰ về hướng An Tiêm
*
là Tay sáo Nguyễn Thành Tín (sinh 1957) hiện đang sinh sống tại Thị Trấn Vĩnh An, là con trai bác Nguyễn Thanh Quế người cùng phường Đệ Tứ và quen biết với anh em tôi. Nhờ viết bài “HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ”, Thành Tín mới xác nhận là Ông Bà Nội của Tín tức là Cụ Ưng Siêu và Bà Nghè là người ĐẶT TÊN cho con Đường Ngự (cũng như nhiều con kiệt khác trong Phường).
Nguyễn Thành Tín có trả lời tác giả như sau:
“Cảm ơn anh P. Bài viết mần chợt dzớ tới ba tui có lần dzắc về Ông Nội tui một thời sơ khai ở Đệ Tứ. Trước số là Ông Cố tui, (Nguyễn Phúc Hồng Chiếu,Trưởng Tử của Vua Thiệu Trị, lý do nội bộ phải bôn ba ra tận Quảng Bình và sinh Ô. nội ở đó (Nguyễn Phúc Ưng Siêu,1866-1942). Đến thời vua Hàm Nghi (Nguyễn Phúc Ưng Lịch) xuất bôn để lãnh đạo phong trào chống Pháp,lập căn cứ tại Tuyên Hoá, Quảng Bình (1885) thì Ô. nội tui theo giúp. Tới năm 1888, tên phản thần Trương Quang Ngọc bắt vua nộp cho Pháp. Ô. nội tui phải thay tên Nguyễn Thái Xuân, vô Quảng Trị tránh Việt gian truy lùng. Lấy vùng ruộng hoang sơ từ sông Vĩnh Định chạy tới An Tiêm ra tới thành cổ... Sau thời tạm yên lấy Bà nội tui (bà Nghè) sinh được 3 gái,1 trai là ba tui. Để nhớ thời giúp vua Hàm Nghi,nghe đâu Ông Bà đặt nhiều tên xóm trong đó có đường Ngự như bài viết. Ông tôi đi nhiều nơi, ới mô cũng có vợ có con (sơ sơ 9 bà khoảng 21 con!, may là ai cũng hiếu học, có việc lương thiện yêu nước để sống). Lúc tui ra đời (1957), ở gần trước nhà Bác Nẫm, ba của anh Đại tá N. Bé, đại uý Bích... số 41b Lê Văn Duyệt, Đệ tứ phường tới '72...”
Ngày đó, bắt đầu con đường này là cái giếng lớn được xây từ thời Pháp. Cái giếng này thoạt đầu có xây nắp đậy đàng hoàng , một nửa mở ra hình bán nguyệt. Nước dùng cho cả xóm. Dì tôi, tên Thừa (Lý ) ngày nào cũng đem hai anh em tôi , xin lỗi "ở truồng" kỳ cọ tắm cho cháu. Cậu Bình tôi lứa anh Liệu anh Thăng, khi nào cũng thi gan lấy hai tay chống vào thành giếng thả cả người xuống và đu lên. Đến khi dân đông, giếng cũng không đủ nước , nhất là mùa tháng hạ phải vét. Mùa khác khi nước sâu , thả móc tìm gàu bị đứt lại được luôn "gàu người khác " mừng như thể tìm được 'tàu Titanic" bị chìm tôi đem về "làm của" luôn. Cả xóm nước uống phải gánh tận thôn Hạnh Hoa . Nơi đó có cái giếng nước uống trong veo , thơm tho. Nhắc đến nước uống dưới giếng Hạnh Hoa tôi nhớ hình ảnh anh Báu. Anh ở tận xóm ông Đội Lạp (tức là ông thân của anh Tùng anh Dũng và Ngô thị Sáu gần xóm Tống thị Nhạn phía trên), ngày nào cũng đi tận dưới xa gánh nước cho mẹ. Đàn ông con trai mà anh gánh nước quá nhịp nhàng, trông mà "phát mê".
Cũng đầu đường Ngự nhưng đối diện quán mạ tôi, phía bên kia là nhà của chú Huỳnh Chốn thân sinh của Huỳnh Rô, và Huỳnh Toàn, Huỳnh thị Liên ...số nhà là 65 Lê v Duyệt. Nhà của chú Huỳnh Chốn là chủ xe Phước Toàn tên của hai đứa em của Rô. (Hình như Huỳnh Rô có người em gái tên Liên nữa). Trước khi nhà Huỳnh Rô ở, đây là nhà của chú Nguyễn văn Ba, cha của đứa bạn thân Nguyễn văn BỐn của tôi. Thời này nhà bạn tôi đã có xe đò chạy Qt Huế. có cho chú Kỳ thuê làm quán may. Cái quán may chú Kỳ ngó ra là cái cống thông ra hồ của thành cổ. Chú Kỳ bằng tuổi cậu Hoa tôi. Người rất vui tính và lại tinh nghịch nữa. Có bữa chú ngồi may nhưng lấy tờ bạc cột một đầu kéo ra giữa con đường nhựa, còn đầu kia chú buộc vào cái máy may singer. Sau khi "ngụy trang" sợi chỉ, có người khách đi đường dưới Góc Bầu đang le te đi chợ Tỉnh. Bà cúi xuống lượm bị chú Kỳ đạp lẹ cái máy may, sợi chỉ kéo phăng tờ bạc lui làm bà chụp trật "tiu nghỉu" bỏ đi một mạch. Người lượm bạc "trật" chỉ biết cúi đầu đi nhanh chẳng dám cự nự ai một lời. Đêm về ngay đầu đường Ngự này, tức là cái cống và cái cột đèn của con đường Lê v Duyệt trước cổng Thành, tụi tôi chơi đá lon hay "hô la manh" với nhau. Môn chơi "hô la manh" đại khái như trốn tìm, hay thấy được 'kẻ địch' là hô to lên nói cả tên là đứa bị thua phải ra "trình diện" ngay...cho đến giờ tôi vẫn làm biếng chưa tra cứu cái từ "hô la manh" đó là cái chi chi?
Bắt đầu đi sâu vào là nhà bà ngoại tôi hay nhà tôi lớn lên bên các cậu tôi là Võ đình Cư , Võ tự Bé , Võ tự Phương , Võ Hoa , Võ Ba và Võ Bình...ngoại trừ cậu Võ Cư là CA còn các cậu khác lớn lên các cậu tôi đi Trường Thiếu sinh Quân hay binh nghiệp khác. Cậu đầu Võ Cư trước là trung đoàn 95 VM , sau này về lại bên Cộng Hòa là công an. Có thời bên VM cho người đàn bà về lại 'móc nôi' nhưng bất thành. 1968 nhà sập một nửa nhà dưới cái nhà ngói trên hư hại ít ỏi. Tôi tuy là đứa cháu ngoại nhưng là thắp huơng khói sớm tối trong nhà ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất sớm từ năm 1949, sau này bà ngoại tôi lại làm bà vải tận chùa SẮC TỨ Tịnh Quang tận bên Ái Tử. Thỉnh thoảng có việc gì tôi mới qua chở bà ngoại về. Đối diện nhà Ngoại tôi tức là bên kia con đuòng là nhà Ôn Vui và mệ Dịu. Nhà Ôn Vui có hai cây khế, một cây chua một cây ngọt. Cây khế ngọt yếu ớt ít trái nên ít khi tôi kiếm được vài trái khế ngọt nào. Trái lại, cây khế chua to lớn rậm rạp phủ một nhánh qua sân nhà Ông Nguyễn trọng Thệ. Nhà mệ Dịu làm nghề thợ may trong nhà. O Lài là con gái đầu. Ôn mệ Vui có người con trai tên Hiền đi ăn học đâu xa thỉnh thoảng mới về. O Lài là chị lớn đi tu đạo sau về nhà, em o Lài tên Diệm xấp xỉ tuổi tôi. Bên lưng nhà mệ Dịu là nhà O Hoài mẹ chị Huờng và Hoàn. O Hoàn tuy miệng có tật do hơi méo nhưng cũng có người chồng là chú Dũng lính kỹ thuật cho không quân là người chồng hiền lành rất yêu thương vợ con. O Dượng Hoài còn người con gái nữa là Hòa ngang tuổi và bạn trong xóm ngay từ thuở nhỏ. Tội nghiệp con trai o Hoài- bị pháo vô thành, lạc ra ngoài khoảng 1967 chết oan mất thằng Gioan. Tuổi nhỏ anh em chúng tôi, Võ Đình Sử, Võ thị Huệ (Ngâu) trong nhà ngoại cùng trang lứa với mấy nàng hồi đó là Diệm, Hòa bốc chẵn lẻ ăn thua sợi thun (địu) hay nhảy 'cò cò" tức còn gọi là "chơi thiên trời" vui vẻ hồn nhiên đúng là thời con nít ...
Tiếp tục con đường Ngự, nối tiếp nhà Ngoại tôi là nhà của bác Hà công Kinh tức là ông thân của Hà thị bích Huờng. Thời tôi còn nhỏ, đây là nhà của ông Lâm, thân sinh của võ sĩ Bách Tùng Lâm- chú Tùng lấy tên ba người: ông Lâm , chú Bách là anh của chú Tùng. Ông Lâm có võ gia truyền, sau này chú Tùng mới là võ sĩ nổi tiếng. Chú Bách, chú Tùng là bạn với hai cậu Võ Phương và Võ Hoa của tôi. Một thời 1960 nhà của ông Lâm còn là nhà tranh, có đụn rơm và buị tre. Tôi còn nhớ trong Sài gòn, ra làm một cuốn phim , đóng cảnh thanh niên chiến đấu. Có thể vào thời Ấp chiến Lược thịnh hành. Đêm đó thật vui, có cả anh Nguyễn Bích sau này là chồng chị Lê Thạnh, cùng với các thanh niên trong thôn được dựng cảnh thanh niên chiến đấu bận đồ đen cầm đuốc lập lòe chạy cạnh đống rơm hay bụi tre rậm sau vườn nhà ông Lâm. Cái máy quay phim có điện chóa, khung cảnh rộn ràng trong đêm thật vui. Sau này ông Lâm bán nhà vườn này lại cho bác Hà công Kinh, ông thân của Hà thị bích Huờng. Ba của Huờng làm kiều lộ hay là công chánh tỉnh QT. Mua nhà ông Lâm rồi, ông thân của Bích Hường xây hai nhà ngói to lớn liền kế nhau có cái Sân Thượng là tiêu đề cho bài thơ Sân Thượng Nhà Em của chàng trai Lê Bá Lư ở xóm bên kia nhưng kế sau lưng vườn nhà của Hà thị Bích Hường. Tưởng cũng điểm thêm một ít là ông thân của anh Lê Bá Lư là ông Lê bá Oa lên ngụ cư bên xóm kia gần với xóm của Nguyễn thị Thanh Tâm. Lúc này anh Lư học đệ Tam sau vườn nhà ngoại tôi nhìn qua hay thấy phòng học của anh Lư. Gần nhà xa cửa ngõ, chàng trai Bích La để ý thế kia mà chẳng thổ lộ cùng ai kể cũng ái ngại biết mấy. Hà thị Bích Hường là em gái nhỏ trong xóm. Học sau người viết khoảng một hai lớp. Nhà Hường có khả năng nên thầy dạy kèm toán cho Hường phải là Cao học Toán như anh Sỏ em trai thiếu tá Lê công Khanh. Người viết nhớ mỗi lần nghỉ hè trong đại học toán trong Huế ra anh Sỏ dáng đi thoăn thoắt, nhanh nhẹn qua nhà ông Kinh để phụ dạy toán cho nàng. Mấy mươi năm sau tình đơn phương của anh Lư mới được khám phá chỉ nhờ bài thơ Sân Thượng Nhà Em mới hay...
ôi thời gian, chỉ là kỷ niệm xa dần cho những ai ra đi nhưng còn thương về quá khứ
Bao nhiêu kỷ niệm ập về cho người viết bài này. Chính đây là đoạn đường mà người viết thời còn bé bỏng hay men theo con con đường này đi về tận bờ sông Vĩnh Định rồi phanh mấy vạt dưa quả của người làng An Tiêm trồng ven bờ để tìm ra năm ba con rế trong mùa hè nghỉ học. Thuở đó gờ đất này là một con bờ đất cao chia cánh đồng lúa ra hai. Thỉnh thoảng mới có một cái cống đất thông nước ruộng cho cánh đồng. Giờ đây đoạn đường phía khởi đầu con đường đã không còn. May thay phía cuối cùng là ruộng không ai giành đất xây dựng mới còn một ít dấu vết.
Có còn hơn không; cám ơn bạn đọc Kim Nguyễn một lần nữa, đã hào sảng thời gian không ngại khó đi ra ruộng tìm và chụp cho một tấm hình minh chứng cho một dấu vết lịch sử của thành phố Quảng Trị năm xưa.
***
Con Đường Ngự dài lắm! Nó chạy thẳng về tận bờ sông Vĩnh Định có làng An Tiêm. Như người viết đã trình bày, lúc sinh ra thì đã thấy nó rồi. Thời trước 1963, từ đường Lê v Duyệt đi ra khỏi nhà ông Lâm là gần hết nhà, hai bên toàn ruộng. Hồi đó, mùa mới cấy lúa tôi hay cùng anh Võ đình Sử con cậu Võ Cư cùng chị Dao em gái chú Bách tùng Lâm ra bắt cua đồng tức con đam, ốc bưu (bươu) đi vài giờ là có cả gàu đầy. Cũng nên nhắc lại với quý bạn đọc, lúc này không có phong trào bơm thuốc trừ sâu gì cả. Ruộng mới cấy lúc nước trong thấy đam lội từng bầy hay con ốc bưu (không phải bưu vàng như thời này) nhởn nhơ tha hồ bắt bỏ vào gàu. Vô nhà ngâm nước một hôm là luộc với lá sả. Cò đam thì người viết nhớ chị Dao rang với ớt sả ...ăn rất ngon chẳng e sợ gì.
Mùa khô thì cậu cháu chúng tôi ra cánh đồng đang khô gốc rạ thả diều chơi. Diều các cậu tôi chơi là diều "người lớn". Diều này nó có hai cánh rộng, mang cả 3 ống sáo trên lưng. Cột dây lèo rất khó. Cánh ruộng phải rộng để căng dây , đợi gió là phóng lên. Con diều không phải có cái đuôi như con nít chơi, mà nó đựng gió bằng hai cánh rộng và bung lên trời. Dây diều bằng dây gai chắc và to mua từng cuộn lớn trên tiệm Ông Kỳ trên phố mới có. TÔi không cầm dây nổi, người lớn mạnh mới cầm nỗi cho con diều lên cao hơn trăm mét. Mỗi lần đứt dây, nó bay về tận ruộng Hạnh hoa dưới xa.Cậu Võ đình Cư tôi mang mấy ống sáo diều từ ngoài Gio Linh vào , những cái sáo này nghe cậu tôi kể lại do môt tay nghề làm sáo diều làm cho. Tiện thể tôi kể luôn hình dáng nó là cái ống lồ ô vừa, vót sạch cật , hai đầu có bít lại , mỗi đầu có đường rãnh thông gió theo kiểu lưỡi gà . Ba ống sáo, hết cật thì nhẹ gắn chồng lên nhau cùng được nằm trên lưng con diều lớn. Lên không trung gió hút vào miệng phễu hai đầu sáo, thế là tạo thành âm thanh kêu "o..o " mãi không thôi.
Xin bạn đọc thứ lỗi, người kể lại lan man nữa... tiếp theo nhà của Hà thị bích Huờng là nhà ông Nguyễn tri Duyến. Ông Duyến là anh hay em của ông Nguyễn Tri Kiệt quận trưởng Cam Lộ. Ông Duyến là ông thân của chị Đoàn, chị Liễu và người em trai cùng một em gái nữa ngang lứa với chúng tôi. Chị Liễu một thời kỳ yêu nhau tha thiết với chú Nguyễn Bích (em đại tá Bé) nhưng duyên số không thành chi cả. Đó là chuyện người lớn, con cháu chúng tôi không hề để ý. Chỉ có một điều là tôi sợ hai con chó nhà chị ông Duyến đến phát khiếp không dám ra nhà bạn Bốn. Đó là hai con chó trắng và đen của nhà ông, tôi khi nào đi ngang cũng "ngán". Con chó đen nuôi sau to lớn hơn, sủa vang nhưng không "độc" bằng con chó trắng. Con chó trắng chờ tụi tôi đi ngang qua là im lặng chạy vụt ra không sủa tiếng nào để cho mình đề phòng mới đáng sợ.
-Ê mi đi mô rứa Cu...?
Riết hồi tôi quên luôn cái tên thật của mình luôn? Tôi không biết sao trong xóm tôi lại nhiều "tên Cu " lắm thế? Có khi lấy tên cha gắn theo chữ C, ví như Quyền con chú Vân thì gọi là Cu Vân. Tôi cứ gọi là Cu Vân và rồi chẳng biết tên giấy tờ của em là gì nữa?
Lối xưa ngơ ngác dọ lối về ?
Tên tôi thật may, ngoài cái chữ "sù sựa" do chú Trương Đá đặt cho tôi vào năm 1960, thoát cái nạn bị gọi tên là "Cu Phúc" , tôi không biết vì sao nữa? Tại sao mà chú Trương Đá đặt tôi cái tên "sù sựa"? vào khoảng 1960 lúc mẹ tôi cho em gái tôi là Đinh thị Hiệp bú , chú Đá có tới nhà thăm cậu Hoa tôi và thấy Đinh thị Hiệp khoảng chưa đầy mười hai tháng tuổi, đang bị ngộp sữa mẹ. "cái chi rứa phúc ? " chú Đá hỏi tôi. Tôi lúc nhỏ nói chớt nổi tiếng trong xóm, lý do vì hai cái răng cửa bị sún cả 2 năm không chịu mọc... trả lời lắp bắp..."dạ ...cái sù sựa" tức là sữa. Từ đó chú Trương Đá đặt cái biệt danh này cho tôi. Suốt thòi kỳ "sún răng" này mấy thằg bạn như Trương SỪng, Trần Tài, nhất là Nguyễn văn BỐn (còn gọi là thằng Vạy) gọi riết tên tôi là "sù sựa" đến nổi, tụi nó quên mất tên tôi luôn. Sau tôi cũng quen, cứ cho là tên mình cũng chẳng sao.
Từ lúc có phong trào "di dân" phía ruộng. Có nghĩa người ta bán mặt tiền ngoài đường Lê v Duyệt ra tậu đất ngoài này. Cái ranh giới cuối cùng mở rộng ra ; ví dụ phía nhà ông Nguyễn tri Duyến thì có Đại Đội Vũ Trang Chiêu Hồi được thành lập. Lịch sử Trung Tâm chiêu Hồi này phải trước 1967 chắc chắn có Mỹ trợ giúp. Do sao tôi biết rõ? Nhưng giữa Trung tâm chiêu Hồi và nhà Ông Duyến, có hai nhà lên ngụ cư tạm thời nên đấp đổi đất đai tạm thời làm mái tranh tôn qua ngày tháng. Đó có nhà o Hảo cũng là quả phụ. Gần nhà o Hảo có thêm một nhà cũng tạm cư nữa, trong nhà có đứa bé tật nguyền chỉ nằm bất động không đi đứng được rất tội nghiệp. Những mái nhà tạm bợ như vậy, nền thấp mỗi khi khi nước lụt về là ngập gần nửa nhà quá khổ...
Nhớ lại vào năm 1967 là năm cổng Thành Cửa Hậu bị bên kia đánh để giải thoát tù chính trị. Có một chuyện đáng nói, phía 'bên kia' cũng giả dạng "chiêu hồi " để theo dõi địa thế tình hình. Những người "chiêu hồi giả" này hay ra chơi phía quán mạ tôi để quan sát cửa thành tức là Cửa Hậu trước. Họ nhắm địa thế cổng thành và sau đêm đánh xong họ cũng "biến mất ". Hồi đó tôi có quen một anh lính chính quy người Hà Nội về chiêu hồi có tên Sơn, đẹp trai , giọng Hà Nội rất hay. Sơn hay la cà từ ty Chiêu Hồi qua chơi nhà ngoại tôi hay vào phòng học tôi ở mái sau. Thấy tôi chăm học, Sơn rất thích và làm quen. Anh còn mở bóp lấy tấm ảnh kỷ niệm một quán nước đâu ở Hà Nội trước ngày anh đi lính vô nam và sau đó anh "chiêu hồi". Sau khi cổng lao xá Cửa Hậu bị đánh (1967), Sơn cùng người bạn đặc công sau đó chiêu hồi tôi mới quen cũng biến luôn. Hồi này còn có mấy anh CHiêu Hồi lính chính quy khác nữa mà tôi quên tên mất. Đêm đánh Cửa Hậu cả nhà ngoại tôi nằm mọp dưới giường mà run. Họ giải thoát gần hai trăm tù chạy rầm rập ngoài con Đường Ngự rút ra phía đồng về hướng An tiêm. Kỳ lạ thay, họ rút ngang Đại Đội Chiêu Hồi nhưng không hề thấy đánh vào trung tâm đó? Và Đại Đội chiêu Hồi đó cũng núp im re? Họ tập trung lại băng bó này nọ tại Trường Ấp Tân Sinh ngoài ruộng không xa Đại Đội Chiêu Hồi bao xa và thản nhiên rút về hướng An Tiêm tức là Triệu Phong ...Gần sáng chỉ có ông Tỉnh Đông chạy lui. Ông tỉnh Đông bị tù do vụ 1963 nhưng may tù chính trị trong đó không ai biết mặt ông nên toán tù được giải thoát có mặt ông Tỉnh Đông mà chẳng ai tố giác cả. Ông tỉnh Đông bận bộ đồ đen, chạy lui khoảng 5 giờ sáng ngồi trước hiên nhà ngoại tôi khiến ai nấy đều run không biết ai ngoài hiên...
Quân đội Mỹ còn đem về đại đội Chiêu Hồi này ban nhạc hợp tấu giúp vui cho mấy anh VC. Bữa đó, cả xóm chạy ra nghe đội hòa nhạc Mỹ hòa tấu bản "ĐÊM ĐÔNG" nghe hay đáo để. Cậu Võ Hoa tôi lò dò lấy cái máy Cassette ra thu tiếng, làm như là phóng viên , tôi không nhớ có thu được không?
Từ sau thời gian thành lập ty Chiêu Hồi là phong trào xây nhà ra xa hơn nữa, hai bên con Đường Ngự. Căn bản những người cố cựu trước đường ra "lập nghiệp" ngoài này như nhà ông Nguyễn Trọng Thệ, nhà chú Nguyễn v Ba tức là ông thân bạn tôi Nguyễn văn Bốn. Nhà võ sĩ Bách tùng Lâm, nhà chú Vân lái xe trácion QT- Huế.
chủ những chiếc xe chở khách hiệu RENAULT giống trong hình trong xóm tôi gồm nhà Chú Thanh, chú Chốn, Chú Ba, ông Khóa Thanh ...
Đó là phía trái con Đường Ngự. Phía phải con đường, người kể xin trở lui lại ngang nhà mới của ông Thệ (ngó qua là nhà ông Nguyễn tri Duyến đoạn trên). Tôi xin nhắc đến nhà chú Xứng kế nhà ông Thệ. Nhà chú Xứng mới ở sau này. Chú làm nghề cắt dép bằng lốp xe hơi mà đầu tiên trong đời tôi thấy. Dép lốp của chú mang bán trên chợ Tỉnh. Tuy là cắt dép lốp, nhưng không có hình dáng dép lốp như bộ đội sau này, mà hình dép nó đẹp hơn dù có quai dép bằng ruột xe. Hết nhà chú Xứng làm nghề guốc dép mới tới nhà chú Nguyễn văn Ba tức ông thân thằng Bốn bạn tôi nói ở trên. Trước đó, chú Ba bán căn nhà số 65 Lê văn Duyệt ngoài đường cho chú Huỳnh Chốn xong ra đây vừa có đất xây cái nhà ngói "to đùng" vừa có chỗ đậu xe và còn dư đất xây thêm nhà trên nữa. Nhà cửa rộng, chú còn thuê thêm người dạy kèm toán cho mấy đứa con. Bạn học cùng lớp với tôi là Lê thanh Tâm nhà ở Quy Thiện có thời kỳ dạy kèm toán con chú Ba. Trở Đất đai tại sao mà rẻ? Thời này có phong trào di dân lập nghiệp trong Long Khánh. Không phải di dân lập ấp 1973 đâu, thưa bạn đọc. Phong trào này có từ lâu. Nhà cậu tôi cũng treo bảng bán, may mà không ai mua. Nhưng cũng vì lưu luyến nên chần chừ. Do phong trào vô nam này mà đất ngoài ruộng khá rẻ. Thời buổi chiến tranh ai ở càng gần đường phố thì cái bụng lai yên tâm hơn. Kế gia trang của Nguyễn v Bốn là nhà của ông Lâm, thân sinh chú Tùng ,tức là võ sĩ Bách Tùng Lâm như tôi vừa nói đoạn trên. Ông Lâm bán nhà cạnh nhà cậu tôi cho ba mẹ Hà thị Bích Huờng xong thì ra đồng. Cũng nhà gỗ nhà tranh và làm ruộng thôi. Nhà ông Lâm hay gọi cho đúng là nhà chú Tùng (sau này làm trưởng nhóm lính của Mỹ gọi là "xi ti" gì đó) có cái đụn rơm và mấy cây mít, um tùm cái ao rau muống trông ra vẻ thôn quê. Ông Lâm ra ở đây rồi, tôi ít có dịp ra chơi nhà ông khác với thời vườn ông sát cạnh nhà ngoại tôi trước đó.
Ra lại con đường Ngự, tiếp tuc bên phải là cái vườn ông bà Tám. Cái vườn rất rộng của bác Tám tức là ông bà thân của chị Lê thị Hoa , Lê v Lành , Lê thị Thêm (Quỳnh Ni sau này). Nhà bác Tám tôi nhớ mang máng lúc trước bán tiệm tạp hóa duói Góc Bầu gần tiệm Bác Kỳ. Tiệm bà Kỳ sát bên nhà chú Đặng sỹ Tịnh (sau này bút danh là Trịnh duy Nhượng), bạn cậu Võ Hoa ( sau này bút danh là Trần giã Viên). Nhà bác Tám cũng theo phong trào "di dân" ra con đường Ngự này "khai hoang lập ấp". Cái vườn cuối cùng trước khi chạy vụ 1972 mới đáng nói. Do bác Tám ông đã tạo dựng một vườn ổi xá lị rộng cả mẫu đất. Trước ngõ là cái quán bán tạp hóa nho nhỏ cho xóm kiếm thêm lợi tức trong nhà.
Đối với vườn bác Tám là xóm nhà ngụ cư cuối cùng cả chục gia đình từ duói làng lên vì chiến tranh lên tỉnh. Là hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được cho đến cái mút thời gian 1972. Hè 1972 nói cho đúng ra chỉ là tháng 3 năm 1972 người QT vội chia tay trong xao xác, hãi hùng. Ai cũng lo tìm phương tiện đi cho thật nhanh để vào Huế khi ngày đêm làn khói pháo kích bên Ái Tử nổ dồn dập. Những sự chia ly không mời mà đến kể cả mối tình nào đó vừa chớm chưa nói lên lời nào thề ước đã vội ra đi...
Con đường NGỰ CÒN DÀI lắm , nó phải chạy ra xa nửa gần giáp với bờ sông Vĩnh Định giáp với thôn An Tiêm. Một thời tuổi nhỏ tôi có những "chuyến phiêu lưu" đi theo con đường đất rộng cao như con đê này về các vườn dưa gần An Tiêm kiếm rế . Tôi không quên được những cây mắm xôi , những bụi chứa dại và mấy con châu chấu voi to lớn. Hai bên là cánh ruộng loáng nước mùa cấy , cho đến lúc nước lụt với cảnh nước đục ngầu mêng mông , hay mùa khô cánh đồng trơ gốc rạ...
Tuổi dại lớn lên bên con ĐƯỜNG NGỰ cùng tình bà con làng xóm , tôi cứ nhớ mãi suốt đời.
bông cỏ hôi
Nỗi nhớ da diết đó vẫn mãi theo tôi cho đến hôm nay, nhất là những ngày hè nghỉ học tôi hay lang thang đi chơi dọc theo con con đường thân quen đó. Tôi không quên những khóm hoa ngũ sắc, mấy bụi mâm xôi, bụi dứa dại, cây lá ngái mọc dại bên đường; lạ thật, qua xứ người, mỗi khi ngắm những chậu hoa ngũ sắc người ta bày bán trong mấy tiệm Home Depot năng nhắc tôi nhớ về 'đường xưa lối cũ' , cái thời 'đuổi hoa bắt bướm' ...
Rồi tất cả cùng chung số phận, cái tên đường Lê văn Duyệt cùng thành phố đó mất rồi . Cũng như con ĐƯỜNG NGỰ, nó theo nhau về miền dĩ vãng. Nỗi cảm hoài u uẩn cho những gì thuộc chuyện xưa tích cũ đến khi viết lại cho thế hệ mai sau là góp nhặt cát đá dựng xây lại hình ảnh xa xưa giờ đã mất./.
PHỞ GÁNH
Từ xửa, từ xưa... không biết ai tạo ra gánh phở cho bác bán dạo về đêm quanh thành phố QT? Mỗi khi bầu trời thực sự tối, bác bắt đầu cuộc hành trình quanh thành cổ thân quen. Bác luôn mặc quần đùi . Hình như đời bác không biết quần dài là chi nữa! Chiếc áo ka ki bạc màu. Hai vai áo vá nhiều lớp do gánh phở hằn nặng lên đôi vai bác không biết bao năm.
Tả về gánh phở; nó được tạo từ hai thùng gỗ vuông, hình khối chữ nhật đứng, có 4 chân nhỏ. Trên mỗi thùng, bện hai sợi thừng chắc chắn để móc đòn gánh. Thùng sau được thiết kế làm sao để bác đặt gọn được nồi nước súp. Bên dưới nồi súp, có một bếp củi thật gọn, lửa cháy leo lét để giữ nồi súp luôn nóng. Thùng gỗ phía trước bác chia ra nhiều tầng, đủ thứ như tô, đũa, rau ,hành và thịt. Phía trên là một mặt bằng nhỏ , bác dành chỗ để làm phở cho khách. Thấy thì đủ thứ, nhưng bác sắp đặt thật khéo léo nên chẳng thiếu món gì. Đã thế, phía ngoài bác không quên móc theo cái đèn bão có 4 mặt kính chắn gió. Chiếc nón lá sờn rách theo năm tháng, bác không quên móc theo ở thùng gỗ sau, phòng mưa.
"Giang sơn" của bác chỉ có thế. Cái đòn gánh cong cong quằn nặng theo hai đầu gánh phở. Bác thường tìm một ngả ba hay trước mấy con hẻm lớn, cũng như mấy con đường kiệt.
-PH.. Ơ… Ở….
Bác cất tiếng rao, tiếng ngân vang sâu vào trong mấy xóm vắng ngoại ô.
-ph…ơ…Ở……
Ánh điện đường như biết 'cảm thông' giúp bác bán phở, đêm đêm tỏa xuống dù chỉ là thứ ánh sáng vàng vọt mờ mờ. Có khách mua phở, bác ngưng rao. Bác xem chừng thận trọng đặt cái tô nho nhỏ lên mặt trên chiếc thùng gỗ. Sau khi nhúng lại nắm phở tươi mềm mại, bác cắt nhanh thật mỏng từng lát thịt bò, không quên gia thêm một chút vị tinh (bột ngọt) hiệu Thái sơn từ cái hộp sắt Tây luôn đặt gần bên. Xong, bác quay lưng dở nắp nồi xúp đàng sau. Dưới ánh đèn đêm tôi thấy rõ nồi xúp đang bốc hơi, lan tỏa lên một làn khói trắng mờ.
Chẳng đòi hỏi chi, khách cứ tự tìm nơi nào thuận tiện bên vệ đường, ngồi xuống xì- xụp thưởng thức tô phở bình dân đó. Trời càng khuya con đường ngoại ô càng trở nên vắng vẻ. Hình như nhờ thế, khách ăn đêm cảm thấy tô phở ngon hơn và ấm áp lạ thường. Vì là phở gánh, phần đông khách đem tô mua phở về nhà . Sau khi đẩy lại mấy que củi, rảnh tay, bác lại cất tiếng rao mà giọng nghe không thay đổi
-PH...Ở!!!….
Có thêm khách rồi đây, ai đó trong xóm đang tất tả cầm tô chạy ra vừa lúc bác đang sửa soạn gánh đi nơi khác.
Thời gian tiếp tục trôi qua lặng lẽ . Chiếc đòn gánh cong cong, đen trùi trũi mãi kẻo kẹt trên vai bác. Tuy vậy, với cuộc đời cần cù chịu khó bác vẫn kiên trì đếm bước theo gánh phở thân yêu và là nguồn sống bao lâu nay của gia đình bác.
Đời người ai cũng có lúc thay đổi, triêng hàng phở cũng thế. Những năm sau này phở gánh dần dần biến mất không còn thấy nữa.
Có thể cũng là bác bán phở gánh năm trước nhưng nay bác đã có được chiếc xe phở đàng hoàng. Chiếc Xe hình khối, phía dưới có những bánh xe tự chế . Ngọn đèn giờ đã được thay bằng ngọn đèn đốt bằng khí đá hẳn hoi. Hai bên thành xe bác còn cẩn thận móc thêm hai cái ghế đòn bằng gỗ có chân cao cho khách ngồi. Giờ đây nồi xúp được làm lớn hơn, chồng tô trên thành xe trở nên cao hơn. Khách ăn đêm ngồi ăn phở vừa nghe tiếng lì- xì phát ra từ ngọn đèn carbur đó. Dù sau này xe phở có trang bị bằng đèn măng sông, tôi vẫn thích ngọn đèn các- buya hơn tiếng đèn các-buya nghe thật vui tai. Dạo này tiếng rao nghe to lắm. Người bán phở, hai tay chắp đằng sau hướng mặt vào trong mấy đường kiệt:
-Ph..ở…ơ..
Có ngọn gió nào trong đêm làm trời khuya lạnh thêm Trong sự yên tĩnh của góc ngoại ô quanh thành cổ, tôi vẫn còn nghe tiếng con chim quốc hằng đêm từ bờ hồ bên kia kêu bầy vọng qua. Hương phở dịu dàng tỏa ra bốn phía. Mùi thơm lan xa, quyến rũ khứu giác khiến ai cũng thèm ăn. Một ông khách đi đâu trên phố về khuya, ngang xe phở ông chợt dừng lại. Dựng chiếc xe đạp qua một bên đường, ông sà vào cái "quán khuya" lưu động đó ăn một tô cho "ấm bụng" trước khi về nhà.
Tiếp tục, trên đường về nhà, chiếc xe được đẩy đến đầu con hẽm hay ngả ba đường cho đến khi nồi phở của bác không còn gì nữa. Tuy vậy mớ xương xúp sau cùng bác cũng bán được cho một ông khách "chuyên ưa men rượu" hay nhậu về đêm.
Nói về chuyện ăn hàng vặt cái thuở xa xưa đó, chúng ta hay nhớ nhiều triêng hàng của mấy o bán vào ban ngày như bún xáo, bánh canh, bánh bèo, đậu hũ... về đêm, đặc biệt lại có chè gánh như người viết đã kể cùng bạn đọc. Trong các thứ hàng ban đêm đó, có một loại hàng mấy o Quảng Trị quê mình chỉ mang một bên nách thôi. Thứ hàng đó không nhiều đến nổi o phải gánh, đó là TRỨNG LỘN. Thật thế, tuy là cái thúng nách một bên hông, nhưng loại hàng đó không phải là thứ rẻ tiền.
Những năm sau này vào nam tôi mới có dịp nghe cái tên “hột vịt lôn” nói cho đúng âm thì là “hột zịch lộn”. Người QT mình hồi đó cứ kêu là trứng lộn thế thôi vì không ai làm nghề bán trứng gà lộn cả. Thời này trong nam có cả cút lộn, gà lộn tùy theo nhu cầu thị trường. Ngày xưa rất khác. Món ăn truyền thống thì bà con mình hay giữ gìn, ít hề pha trộn cải biến lung tung.
Nghề ấp trứng lộn tại quê mình ngày đó chỉ làm theo kiểu thủ công, gia đình. Làc đác đâu đó tôi mới thấy vài bầy vịt nuôi rong trên mấy cánh đồng giáp giới Trí Bưu về hướng gần cầu Ba Bến. Trong Diên sanh thì có mấy bầy ở đồng Cu Hoan hay gần cua Hà Lộc giáp giới Mỹ chánh. Đất ruộng QT hiếm hoi làm sao bì được trong nam nơi ruộng đồng cò bay thẳng cánh, bởi vậy vịt bầy ở QT hiếm là đúng.
vịt chạy đồng (vịt bầy) cắt lúa xong chủ ruộng cho vịt chạy đồng này ăn với một số tiền nào đó
Nhưng bù lại, trứng lộn QT mình thật ngon. Có lẽ do làm thủ công, ít ỏi nên trứng lộn được chăm sóc kỹ lưỡng từng cái một, nên trứng mới ngon như thế. Tôi lại suy rằng: bầy vịt QT ăn kham khổ hơn nên trứng và thịt nó mới đậm đà chăng? Một điều quan trọng nữa, nghề ấp trứng lộn họ dấu kỹ lắm, chỉ “cha truyền con nối” mà thôi. Ấp trứng lộn không có bí quyết thì chỉ ra trứng hư, mà trứng hư rồi thì khách làm sao ăn?
Thôi, người viết xin trở về chuyện “Đồ Nghề” của o bán trứng lộn hơn là chuyện ấp trứng. Nói thì đồ nghề; nhưng có gì đâu? Những thứ cần cho một đêm đi bán của o nhìn gọn gàng hơn o bán chè gánh nhiều. Trứng luộc xong, o bỏ hết vào trong một cái thúng có đựng trấu (hay trú tức là vỏ lúa xay xong.). Vỏ trấu có công dụng rất hay là giữ trứng được nóng lâu. Lại thêm một cái ‘trẹt’ (hay mẹt) nhỏ đậy vừa vặn chiếc thúng. O chỉ đem theo đơn giản cái chai muối tiêu, thêm vài ba cái dĩa đất nhỏ cùng một mớ rau răm được vình trong lá chuối.
Màn đêm vừa buông xuống; từ mấy xóm trong thôn Hạnh Hoa hay Trí Bưu hay dọc theo đường Duy Tân Thạch Hãn, mấy o bán trứng một bên nách thúng còn tay kia cầm chiếc đèn dầu treohướng về mấy con đường phố quanh Thành Cổ:
-Ai… trớn (trứng) lộn !?
Có khách, O ngồi xuống một bên đường.
-Trớn mấy một cấy (cái) ri.. O…?
-Ba cấy mười đồng.
Khách ăn trứng lộn cũng ngồi xuống bên lề đường. Cái trẹt nhỏ bây giờ trở thành cái mâm. O nhẹ nhàng đặt 3 quả trứng xuống cái dĩa nhỏ, một dĩa kia o đặt môt nhúm rau răm và tiêu muối.
Ông khách chưa vội ăn ngay. Một tay cầm cái trứng, tay kia ông che che nheo mắt soi cái trứng lên ngọn đèn điện đường
- Răng trớn ..tra (già) ri o !?
-Trớn rứa mà eng chê tra tề...
Nói rứa nhưng o cũng chiều lòng khách. O săm soi, lựa sâu trong lớp trấu cho đến khi có được cái trứng nào vừa ý khách mới thôi.
Sau khi húp hết nước của cái trứng, ông khách chỉ bóp một cái là cả cái trứng tuôn "tuốt tuồn tuột " vào miệng ,chỉ còn lại cái vỏ đã bẹp dí trên tay. Ông khách vừa nhai nhồm- nhoàm, ghém thêm một nhúm rau răm, cùng một tí muối tiêu vào miệng, thế là xong ! Tôi là một thằng bé đứng gần đó, thán phục tài ăn của ông khách lắm. Tôi thì ăn vài lần mới hết cái trứng. Cứ nhớ mãi, có khi tôi bắt chước cách ăn của ông ...bóp một lần... rủi thay! miệng tôi thì nhỏ, trứng bên trong còn nóng hổi, nhổ ra thì tiếc của, báo hại thân tôi nước mắt ràn rụa, chút nữa là phỏng cả miệng!
Cũng có lúc, khách mua trứng mang về nhà. Vài cái trứng o ưu tiên bỏ vào cái túi nylon. Lúc này o kèm muối tiêu gói sẵn trong mấy gói giấy nhỏ xíu, còn nhúm rau răm thì được đựng trong một miếng lá chuối, thế thôi đơn giản lắm. Công bằng mà nói, trong mấy thứ hàng ban đêm, thúng trứng lộn của o xem thế mà thuộc loại đắt tiền khi so với đời sống của người dân bình thường hay so với giá trị đồng bạc cùng thời.
trứng lộn trong nam ăn kèm lỉnh kỉnh đủ thứ rau chua ớt tỏi |
Những năm di cư vô nam rồi, người viết mới thấy cách ăn trứng lộn trong nam khác hẳn tại quê mình. Có dịp ăn trứng lộn tại Phan Thiết hay Sài Gòn về đêm, tôi thấy khách ăn trứng họ đặt lên cái tách nhỏ cho khỏi nóng tay. Xong, họ lại dùng cái muỗng nhỏ từ từ múc trứng ra ăn. Đó là chưa kể vài thứ lỉnh kỉnh kèm theo... nào rau nào đồ chua nào ớt tỏi. Khách ăn trong nam hay có thêm xị rượu hay bia bán kèm nữa chứ. Trong nam, chẳng có khi nào tôi thấy trứng lộn người ta đi bán trong cái thúng nách một bên hông giống Quảng Trị ngày đó cả.
Đồng ruộng hiếm hoi như đã nói đoạn trên thì cái trứng vịt QT ngày đó cũng có cái giá trị của nó huống gì trứng lộn? Dù mang tiếng là ‘thằng nhỏ ăn hàng’ nhưng trong lòng người viết sau này lại cảm thấy vui vui khi có dịp kể lể chuyện trò so sánh trứng quê mình quê người...
Bao tiếng rao hàng khi màn đêm buông xuống nơi vùng ngoại ô tỉnh Quảng. Những cái nghề sinh nhai giúp cho đời sống của người lao động ngày xưa trong thời bom nổ đạn reo. Giờ đây chúng ta ngồi thương nhớ về xóm cũ phố xưa mà kể lại cho nhau nghe qua vài món hàng ăn dân dã. Một ngày nào có ai đó ngồi ăn hàng bên con phổ lạ, chợt chạnh lòng nhớ lại một chút gì đó tạm gọi là HƯƠNG XƯA./.
BÁNH TRÁNG CHÈ KÊ đó là bốn chữ, người viết nhớ lại ngày trước luôn đi với nhau. Chè Kê cúng xong, phải là cúng xong mới được ăn với bánh tráng. Chuyện này có nghĩa rằng Chè Kê chỉ có nấu trong lễ cúng chứ không nấu bình thường như các thứ chè dân dã khác. Có thể do KÊ là đặc sản nên từ đó người mình ngày trước hay cúng trong dịp mồng năm ngày tết hay để tỏ lòng trịnh trọng dâng lên trong cúng kỵ cũng nên.
Hôm nay đọc bài viết " TẾT ĐOAN NGỌ MỒNG 5 THÁNG 5 ÂM LỊCH" của Giáo Sư Nguyễn Châu, người thầy vừa là cố vấn trong Ban Chấp Hành Hội Đồng Hương Quảng Trị tại San Jose, tôi chợt nhớ về hình ảnh Bánh Tráng Chè Kê hơn năm mươi năm về trước.
Nếu nói nhớ bốn chữ "BÁNH TRÁNG CHÈ KÊ" quá da diết đi thì thật ra là sáo ngữ do thời này thiếu chi thức ngon vật lạ. Có một điều kẻ viết bài này xin thật lòng thưa với bạn đọc là cơ hội ăn lại thứ vừa kể trên ngay tại xứ này thật khó làm sao! Khó là không ai bán thứ chè này. Ra tiệm food to go có đủ loại chè nhưng đố ai bán thứ này. Còn tự nấu chè kê, thì ở đây người ta không buôn loại hạt này do không có cầu thì chẳng có cung. Thật ra nếu có kê trong tay, người viết chưa hẳn đã nấu được cho ra chè kê đúng nghĩa và chưa hẳn con cháu bây giờ lại ủng hộ hay ưa thích.
Khó lòng gặp lại, có nghĩa là không bao giờ thấy lại, ăn lại, hay ho hơn một chút là thưởng thức lại. Bên quê nhà chắc hẳn không lạ với thức này. Nhiều nơi vẫn còn. Riêng tôi, hình ảnh đó chỉ bàng bạc trong trí nhớ. Có thể bạn đọc thắc mắc:
Lạ gì với món chè kê sao mà 'ca cải lương' đến thế?
Xin thưa với bạn: chè kê nếu có bánh tráng thì không hiếm hoi gì, nhưng cách ăn bánh tráng chè kê theo cái kiểu ngày trước theo trí nhớ tôi, chắc có mấy ai?
***
Cái am thờ trước nhà ngoại tôi đó là nơi tôi hay giúp ngoại đem mấy chén chè kê ra cúng. Nó sắp một dãy ở trong cùng. Cúng này chắc chắn là Đoan Ngọ mồng 5 tháng 5 Âm Lịch, cái tục lệ người Việt mình. Hết mồng 5 đem các thức cúng ngoài am vô, mấy chén chè kê vẫn còn 'an vị' không ai dọn cả.
Bà ngoại tôi bảo phải đợi cho nó mốc trên mặt rồi đem vô.
Tôi thắc mắc: sao lại thế?
A! đây là cách ăn hay kinh nghiệm về ăn chè kê của ông bà mình đây.
Thật thế! mấy chén chè để yên như thế khoảng hơn ba ngày, mặt trên sẽ nổi lên một lớp mốc. Nướng xong cái bánh tráng gạo. Giờ ta hớt lớp mốc này bỏ đi, phần chè bên dưới giờ đã lên men một hương vị khó tả lại, nhưng nó khác xa với chè kê vừa nấu xong. Tiếp tục ta lấy bánh tráng thế muỗng múc ăn. Mấy chén chè, số hạn định trên am thờ ngoài vườn thỉnh xuống không nhiều. Có được một chén chè như thế là ưu tiên lắm rồi.
Chè kê bánh tráng kể như thế, có ngon lạ ra sao thì nay thứ hương vị đó nó chẳng chút nào lưu lại trong trong trí nhớ để diễn tả cho đúng. Kể cũng lạ? đã năm mươi năm hơn người viết không có cơ hội nào thưởng thức lại món đó. Có điều tôi chưa quên, khi hớt xong cái lớp mốc trắng xanh trên mặt chén chè bỏ đi, màu vàng của lớp chè kê bên dưới lộ ra kích thích tính tò mò háo hức của vị giác về một cách ăn lạ lùng!
Nhớ ngôi nhà ngoại, tôi nhớ cái am nho nhỏ thờ ở vườn trước. Những ngày rằm mồng một đứa cháu ngoại phải bắc cái ghế mới đặt phẩm vật và thắp nhang cúng được. Ông anh con cậu và tôi, hai anh em háo hức làm sao mỗi lần được sai thỉnh thức cúng trên am xuống. Nải chuối mốc mốc chín đen ngọt đậm, dĩa bánh in mua từ chợ Tỉnh, sao lại hăng hái ...đến thế?!
hình ảnh mâm cúng Mồng Năm Tháng Năm hiện nay sao 'hoa hòe' khác ngày xưa?
Cúng rằm mồng một là chuyện hàng tháng. Riêng BÁNH TRÁNG CHÈ KÊ quả là hiếm. Thứ này chỉ đi với dịp tết Đoan Ngọ mồng năm tháng Năm mà thôi.
Thời nay, mỗi dịp Tết Đoan Ngọ về chắc chắn có những thức cúng ngon, lạ hơn nhiều. Không biết lớp trẻ sau này hay "ưa của lạ" như tôi ngày đó hay không? Người viết mong sao quê mình giữ mãi lệ cúng CHÈ KÊ để thứ chè này sẽ đi cùng với thứ bánh tráng mộc mạc bình dân, làm từ hạt gạo của ruộng lúa quê mình. Nhưng rồi nghĩ lại thân phận bao kẻ lưu vong, lại chạnh lòng do biết những người xa xứ chẳng còn cơ hội thưởng thức lại BÁNH TRÁNG CHÈ KÊ thêm lần nào nữa./.
ĐHL
mồng 5 tháng 5 ÂL Tân Sửu
nhân đọc bài viết MỒNG NĂM THÁNG NĂM của GS Nguyễn Châu
edit 20/3/2023
ĐHL (2013)
Người kể chuyện xin gác qua chuyện "cành phượng hồng" hay ve sầu nỉ non, đó là tuổi lớn dành cho thời trung học - biết yêu, mơ mộng, tương tư, nhung nhớ...
Số phận mấy con dế "chiến bại" của mấy đứa bạn tôi thật thê thảm! Con nào không "tạo dựng được cơ đồ" hay bị mấy đứa bạn ngứt đầu để chọc cho con dế khác "sực". Có 'sực' cỡ nào cũng thua con dế nhất của tôi. Thú thật, tôi chưa hề ngứt đầu con dế nào cả. Muốn dế sực tôi chỉ dùng tóc để quay. Có khi tôi dùng tóc quàng qua khe cổ của con dế, đây là cách quay thông thuờng. Có khi tôi lại quàng sợi tóc giữa ngách giữa chân sau và thân con dế, vừa xoay miệng tôi vừa thổi. Đứa nào cũng chúm miệng thổi vù vù. Mấy cái cánh dế bung ra tưởng chừng rụng hết đến nơi? Hai đối thủ bắt đầu sực, chúng rung cánh kêu lên vài tiếng 'thách thức' rồi lao vào quyết chiến.
Rồi cuộc chiến Mậu Thân 1968 ập đến gia đình tôi phải dời lên chợ Tỉnh trú tại Phường Đệ Nhất. Lớp em tôi như hình trên có thể không có thứ "hạnh phúc" như anh nó là dược đá dế thoả thích tại cái xóm mang tên Cửa Hậu thân thương muôn thuở. Lớp em tôi có thể có những thú vui riêng, khác lạ dành cho nơi phố thị.
No comments:
Post a Comment