Wednesday, August 16, 2023

QUÁ KHỨ DI DÂN TUYỂN TẬP 3

 

MỤC LỤC

1- TỪ XE BÒ LÊN XE CẢI TIẾN Ở XỨ HÀM TÂN 

2- CHUYỆN KHOAI ĐỔI CHÓ Ở MỘT THÔN  NGHÈO

3- NHỚ HỒ NƯỚC NÓNG BÌNH CHÂU 

4- NGÀY TẾT THẦY CÔ Ở CHỐN THÔN NGHÈO 

5- ĐẤT RUỘNG HIẾM HOI CỦA XỨ ĐỘNG ĐỀN 



===============================


KÝ ỨC 




   chiếc xe 'CẢI TIẾN' của vc Sáu Huế một thời giúp bà con thôn tôi chuyên chở mọi thứ
 -Cam Bình Hàm Tân 
 

   Xe 'Cải Tiếnkhông biết có mặt tại huyện Hàm Tân lúc nào? Theo tôi, nó bắt đầu có vào cuối thập niên 1980 tức là sắp bước vào năm 1990. Thời buổi trâu bò "lên ngôi" do thiếu sức kéo. Ai có con bò thì xem như là thành phần giàu có tạm gọi là phú nông, phú hộ có nghĩa là giới có của. Của ở đây là mấy con bò, người nông dân nghèo chẳng bao giờ có được. 

Thời tôi ra trại được trở về sum họp với gia đình. Chuyện bò đi cày ruộng nơi vùng tôi ở quả hiếm thấy?  Người ta quý bò và cần bò để vào rừng kéo gỗ.  Rừng là vàng, gỗ xẻ ra ván,đó là tiền và vàng. Nếu không có con bò vào rừng kéo gỗ về thì thợ rừng đành bó tay chịu thua.

Khoảng non mười năm sau 1975, nhà cửa chốn thôn làng, phần nhiều mái tranh vách đất. Nói đúng ra, vùng Hàm Tân, Bình Tuy đều là mái tranh vách lá. Chuyện nhà tôn, vách ván có thể xem là trung lưu khá giả.

 Ván là tiền, nhà giàu mới mua đủ ván cho căn nhà lợp ngói hay tôn. Con bò kéo gỗ giúp giới thợ rừng sắm vàng. Dần dà chuyện bò cày ruộng chẳng ai ưu tiên nữa?

Thế là sức lực nông dân như chúng tôi trong thôn xóm phải cuốc cày thay sức trâu bò. 

   Bò đã thiếu, mà thiếu thì lại quá quý. Bao nhiêu bò tập trung vào rừng kéo gỗ. Những người chủ bò nay lại là thợ rừng và từng bị gán cho cái tên rất cụ thể đó là "lâm tặc". Dù lớp lâm tặc này từng bị kiểm lâm bắt bớ bao lần và một lần bị bắt từ chủ và bò đều bị phạt một cách ghê gớm. Nhưng giới chủ bò vẫn giàu, người bắt bò cũng có 'hoa lợi' gián tiếp vào tay. Dù mờ ám nhưng cũng trở nên một giới giàu có tuy là gián tiếp 'ăn theo' mà thôi.

    Một thời rừng rú rậm rạp, tha hồ gỗ củi. Bò từng giúp người thu về bao nhiêu tiền muôn- bạc tỷ đúng theo cái nghĩa "rừng vàng biển bạc" như người ta hay nói. Một buổi giao thời, có bò là có của tiền từ rừng từ gỗ ban cho. Người vào rừng hạ gỗ, rồi bò vào rừng kéo gỗ, chỉ là "luật rừng" thôi. Tuy vài chuyến bị 'bắt' một chuyến nhưng người chủ bò cũng dễ sắm "vàng chỉ -vàng cây" hơn người chỉ biết đi cày ruộng cuốc nương, ngày ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất nghèo đói vẫn lai hoàn là đói nghèo mà thôi! 

  Ôi! cái nghiệp cày ruộng ngày ấy nghĩ lại càng toát mồ hôi. Tuy nhắc lại sau nhiều thập niên đi qua mà vẫn tưởng là mơ. Làm sao người kể chuyện này quên được, hình ảnh hai người quàng dây qua cổ để cố kéo cái bừa cho đều đám ruộng ngập sình.
 Việc của bò nay người làm thay. Từ cày cho đến bừa, những thửa ruộng hợp tác xã chia cho nay đã trao phó hết cho đôi vai và hai bàn tay cùng cái cuốc to bản của người làm ruộng trong thôn mà tôi cũng là một chứng nhân hay nạn nhân thời cuộc. Đi cày cuốc ngoài đồng, ai đọc ngang đây cũng tưởng ra hình ảnh "con trâu đi trước cái cày đi sau" và sau nữa là cái roi của bác nông dân quất nghe tron trót. Không đâu, thưa bạn đọc. Cái thời bao cấp ngày đó, trâu bò là "xa xỉ",  là giai cấp phú hộ mới có. Còn người làm nông sàng sàng thời đó làm gì có được? Thế là các anh, các bác nông phu thôn tôi thay nhau làm giúp... "phần của trâu bò",  nghĩa là bừa - cày đều dùng sức người 'chân chính'  thế vào.
 
Xin bạn chớ tưởng lời nhạc của bác Phạm Duy xưa là hư cấu:




hình của bản nhạc Quê Nghèo 

Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy
(Quê Nghèo/ Phạm Duy)

 Ôi! lời nhạc tưởng là câu chuyện của ngày xưa hay của ai đâu? thế mà đó là hình ảnh của người viết những năm mới được 'ra trại' về lại thôn làng, bên mái tranh nghèo của gia đình...
            
Đám ruộng bạc màu của thôn tôi, lúa cao không hơn đầu gối. Những ngày tháng làm ruộng không đủ ăn, những buổi cùng mấy đứa em quàng dây qua vai để kéo những đường bừa thế sức bò...dưới kia là Thị Trấn Lagi, giàu có những chiếc tàu cá ra khơi, đối với tôi là cả một "kinh kỳ sáng chói" chẳng bao giờ tôi dám mơ một buổi sáng đi bộ về thành phố biển đó, kéo tô phở hay kêu một ly cà phê cả?

*

 KUBOTA LÊN NGÔI THAY  BÒ 

  Tôi kể dông dài về chuyện của bò, chẳng qua vì muốn nhấn mạnh đến sức kéo để vận chuyển bao sắn khoai từ vùng nông thôn về nơi thị trấn. Những chiếc cải tiến một thời còn gọi là xe "máy xới" vì nó dùng đầu máy KUBOTA làm động cơ chính. Chúng chở hải sản về đến thị trấn cùng chở vật liệu xây dựng ngược lên vùng nương rẫy.

    Người viết đến đây cũng xin báo trước, giai đoạn này bò không còn là bộ mặt giàu có nữa. Bò không còn giá trị như cái thời người kể đoạn trên. Ngang đây thì rừng núi tại quê nhà lúc đó cũng cạn kiệt. Bao nhiêu cánh rừng trơ trụi, hoang hóa do bàn tay tàn phá của con người. Bao nhiêu gỗ tốt của rừng xanh phần nhiều đã bị đốn hạ cho vấn đề gỗ ván và than củi. Rừng xanh cạn kiệt, bò lần lượt xuống cấp trở về cày ruộng hay được chăn nuôi làm thịt.


xe than là loại chở khách do thiếu nhiên liệu phải chạy bằng than nên càng mau hư máy  

XE CÔNG NÔNG nhưng sao THÔN TÔI GỌI LÀ CẢI TIẾN?

Thật khen cho tài của mấy ông thợ máy Việt Nam vào cái thời bao cấp. Thời này mọi thứ đều thiếu, xe đò chở khách do thiếu nhiên liệu nên phải chạy bằng than dù biết vấn chuyện này càng mau hư máy xe? Nhưng dù có chạy xe than, vùng thôn xã chúng tôi ở "có mơ" cũng không có. Đi đâu  thì có chiếc xe "lô ca chân" tức hai bàn chân ta làm phương tiện?  Tôi không quên hình ảnh chiếc xe đạp thồ,  nặng nề cục mịch nhưng "vạn dặm đường xa"  nó là phương tiện chính. Đường vùng thôn quê, lở lói, hố hầm nhưng  chiếc xe đạp thồ kia chẳng bao giờ 'ngán sợ' cả.

     Cáng đáng ghi nhớ, tài của người thợ máy xe "cải tiến" lại tăng gấp bội. Mấy anh mua thứ nơi này, chút kia chỗ nọ, rút cuộc cũng nên hình hài chiếc xe. Có lúc chống cuốc, tôi đứng ngắm hình ảnh mấy chiếc CẢI TIẾN ra đời, chạy xình xịch lên về , qua vùng tôi ở mà "sướng" con mắt. Dân mình cũng tự biết cách "cơ giới hóa" đâu thua ai?


   Sao mà không sướng? từ các động cơ dùng chạy máy xay lúa , xay sắn nay mấy thợ máy nghĩ cách làm ra chiếc xe vận chuyển hàng hóa cho bà con nông dân trong thôn chúng tôi nhờ. Sao mà không CẢI TIẾN ? khi không lại có thêm 4 cái bánh . Phần đầu lại có ông tài xế cầm 'vô lăng ', sau chở cả tấn hàng, chạy ào ào lên xuống cái dốc Cam Bình xem thật là "đả con mắt". Chuyên chở nông phẩm là chính, nhưng ai thuê chở hàng gì anh tài xế xe CẢI TiẾn đâu có từ nan, miễn có tiền là được. 


 Chiếc xe 'xình xịch' chạy, không nhanh hơn xe hàng nhưng nào thua ai. Mấy chiếc xe bò kéo hàng , một thời "bá chủ", giờ phải nhường lại cho xe cải tiến, vừa nhanh vừa rẻ , ai mà chẳng ưa?


Xe cải tiến chủ yếu dùng sức kéo là máy diesel, bộ số đơn giản, không có hư vặt vì chạy chậm và chỉ kéo thôi. Hơn nữa, nó không có khả năng đi xa trên "đường thiên lý" như  xe vận tải thứ thiệt -  xã về huyện là xa lắm rồi. Không có cơ quan nào công nhận loại xe này, từ cái động cơ Kubota nó được người thợ máy VN ta nào đó tạo thành 'chiếc xe' bán tải mới gọi là "cải tiến" cũng nên?


 Sự đời, nghĩ cũng nưc cười. Đã gọi là "CẢI TIẾN" thì chiếc xe phải "ngon" hơn xe bình thuờng? Theo 
ý người viết, một từ có thể thích hợp là xe "BIẾN CHẾ". Tiếng gọi đề nghị này đúng với ý nghĩa nhưng nghe sao "lủng củng"? hơn nữa, không "OAI".  Có thể do vậy người ta gọi là CẢI TIẾN cũng nên?


  xe CẢI TIÊN kiêm luôn dịch vụ du lich "có thua ai "

   Buôn bán thông thuơng "bùng nổ", bắt đầu vào thời đổi mới. Thiên hạ có "đồng ra đồng vô" rảnh rang đi thăm thắng cảnh , tắm biển vùng tôi. Xe CẢI TIẾN một lần nữa đươc "CẢI TRANG" làm xe chở khách ra biển Cam Bình.  Không ai chê bai , bà con thông cảm nhau mà.

CẢI TIẾN NHƯNG CHỈ LÀ TỪ TRONG THÔN, NÓ LÀ XE CÔNG NÔNG MÀ THÔI đó là loại bán tải không bảo đảm an toàn và chở chỉ non 3 tấn hàng là cao tay


CÓ DỊP ĐI XA ra tận các huyện khác hay thành phố mới biết chiếc xe cải tiến chẳng phải là cải tiến. Nó là xe bán tải còn gọi là xe Công Nông. Dù sao từ bò lên xe, đối với hoàn cảnh trong thôn đó là 'cải tiến' lắm rồi.

***

 Bước qua năm 2000, nền kinh tế 
THỊ TRƯỜNG bắt đầu đổi mới và thực sự CẢI TIẾN mọi vấn đề giao thông kinh tế, giao thuơng mọi nơi mọi ngõ ngách. Xe hai bánh tức là "xe nổ" nhà ai cũng có, đường xá đổ nhựa khắp nơi tha hồ tốc độ. Buôn bán kiểu tư bản làm bà con khắp nơi đều "có máu mặt" . Xe đò hiện đại thông thuơng từ quê lên tỉnh , từ đồng bằng lên miền núi. Giao thông chuyên chở đã có những chiếc xe vận tải thứ thiệt Made in Japan , hay tệ lắm là Made in China thế chỗ. Sắn khoai lúa gạo hay hàng hải sản đều được vận chuyển bằng các chiếc xe đời mới này. Số phận các chiếc xe CẢI TIẾN dần hồi "xếp vó" , bị tháo gở làm máy xay hay đi cày ruộng. Trên Sài Gòn hay các tỉnh xa người ta về thăm biển Cam Bình thiên hạ đều đi trong các chiếc Huê Kỳ "láng xì cón" , có ai còn nhớ chiếc xe CẢI TIẾN ,'lọc cà lọc cọc " chở khách ra biển nữa đâu. 


 Dưới huyện Hàm Tân, mấy chiếc xe khách hạng sang khách tha hồ, nhấc điện thoại lên là có. Sau khi gọi chỉ năm ba phút là có chiếc xe nhỏ đời mới dừng ngay trước ngõ. Không ai phải đợi lâu cả tiếng đồng hồ cả? Các công ty xe taxi, xe gió tha hồ mọc lên, chào khách tiếp thị song song với nhiều kiểu điện thoại cầm tay ra đời. 

Ngang đây, bạn đọc sẽ tưởng tượng ra mấy chiếc xe than thập niên 1980 "quỷ tha ma bắt" đã vào "nghĩa địa xe" từ lâu.  Rừng xanh từng bị phá hủy hàng loạt do sự đòi hỏi nguồn cung than cho hàng loạt xe chạy than "cải lùi" hư máy nát rừng như vậy?

Phận con bò một thời chỉ có trong sân nhà phú hộ, hay mấy thợ rừng giàu có nay trở về lại ruộng nương..

vợ chồng tác giả ĐHL bờ biển Cam Bình Hàm Tân tết 2017

Bò cũng 'thất nghiệp' do ruộng đất hiếm dần. Kinh tế khởi sắc. Thành phố công nghiệp phát triển, nông thôn đất đai hẹp dần để dành đất cho thương nghiệp hay nhà máy. Đất càng quý thì ruộng nương co rút dần hồi. Những con bò thất nghiệp, nếu không đi cày, ăn cỏ cho mập làm thịt thì ra các bờ biển, làm vui cho khách du lịch. Năm 2017 khi vợ chồng tôi về lại thôn xưa, nhìn  hình ảnh chiếc xe bò trang hoàng hoa lá, chú bò đủng đỉnh đứng chờ khách bên bờ biển. Một ca kéo khách đi theo bờ biển dạo chơi cho vui chỉ được vài chục ngàn đủ cho chủ ăn hai tô phở? Một thời bò hái ra 'vàng cây vàng chỉ" nay còn đâu? Tôi âm thầm nghĩ thế, và lắc đầu ái ngại cho sự thay đổi của cuộc đời. 





   resort Cam Bình -Hàm Tân  hôm nay






hình: Resort bãi biển khu du lịch Cam Bình, Hàm Tân  giờ này đầy ắp khách lái xe du lịch từ Sài Gòn Phan Thiết tới tận nơi. Đường sá láng bóng, nhiều chiếc xe đẹp chạy qua hàng ngày. Thời này làm gì có chuyện 'chiếc xe cải tiến' chạy xình xịch năm xưa nữa? họa chăng là âm vang và hình ảnh trong lớp cha mẹ như chúng ta còn may ra nhớ lại. Bò còn may mắn hơn nó chút đỉnh, do bò còn làm cảnh ngoài biển cho khách thành phố về vui chơi. Mua vài ngàn đồng bạc ngồi lúc lắc trong chiếc xe bò trang hoàng hoa lá cành đi dọc theo bờ biển thấy vui làm sao? 

 Giờ đây trong Thôn Cam Bình là lúc mấy ông tài xế những chiếc xe "cải tiến' năm xưa hay ngồi lại với nhau uống cà phê mà nhắc lại chuyện cũ. Chắc hẳn phải có lần kể về "đời xe CẢI TIẾNmà cảm thấy nao nao trong lòng

Mấy ông vừa kể chuyện xưa, vừa thuơng mấy chiếc xe  cải tiến một thời 'trèo đèo vượt thác', giúp làm ra đồng tiền bát gạo. Thời thế đổi thay vùn vụt , mấy chiếc xe kia biến mất khi nào lẹ quá! lâu lâu nhớ lại, nên cùng nhau tìm ảnh ra coi để tìm về hình ảnh mấy năm gian khó.


    Thôn Cam Bình nay có chợ mới nhưng chẳng mang tên cũ mà lại mang tên Tân Phước. May mắn nhờ bà con 'níu' tay Xã đòi phải xây trên nền đất cũ. Xã có cái tên mới là Tân Phước, trực thuộc Lagi tức là không còn trực thuộc xã Tân Thiện như lúc  gia đình người viết mới ra đi năm 1995 nữa.  Thế sự canh tân 'xe nổ- xe con' thiên hạ sắm ào ào. Hình ảnh chiếc xe "cải tiến" xem như "rong chơi trong vùng quên lãng". Tội nghiệp cho thân phận loại xe này, không có một nhà bảo tàng nào nhắc đến chúng cả? Đối với người viết, dù sao cũng có chút tâm ghi lại, do đây là câu chuyện có thật. Một chuyện tuy thật nhưng vui buồn lẫn lộn, có lúc "cười ra nước mắt" do xe không ra xe, máy không ra máy nhưng chúng thực hiện được nhiều việc- từ chở đá gạch, gạo bắp sắn khoai, cho đến chở người... xe "cải tiến" đều chở được tất cả mới hay. 

   Có nhiều chú tài xế trong thôn, vừa là chủ như chú Sáu Huế từng cầm vô- lăng lái xe đó. Chú Sáu lái xe lên tận mấy xã vùng cao, chuyên chở nông phẩm vật dụng hay về huyện mua hàng... không biết bao nhiêu cây số.  Dưới xã Tân Thiện hay phố thị Lagi thời đó cũng có một số tài xế xe nói trên như Sáu Huế. Thế mà giờ đây đã hai ba thập niên qua rồi. Các lớp tuổi này đã là ông ngoại, ông nội hết rồi. Mấy chú tài xế đó nay vui thú điền viên hay làm ăn cách khác. Nếu có ai dư dật giàu có ra sao thì cũng nên hưởng ứng với tác giả bài này mà hãy lắng đọng một chút tâm tư hướng về kỷ niệm năm nào.

bà con thôn xóm nay đã lên đời xe con xe nổ nhiều rồi khác xa một thời đi xe 'cải tiến' hai mươi mấy năm trước (hình 2017)


   Người kể mừng cho bà con trong thôn, giờ đây đi đâu cũng có xe hơi láng bóng, đầy đủ tiện nghi không thua gì nước ngoài. Tuy thế cũng đáng tiếc khi không còn cơ hội để 'thưởng thức' cái cảm giác ngồi xe "cải tiến" nó chỉ có một lần vào thời 'ngăn sông cấm chợ' năm xưa !?

    Dòng đời trôi chảy. Sướng khổ gì ta nên nếm hết mới gọi là KINH QUA. Trong kinh qua này, giá như ai được lái hay ngồi xe 'cải tiến' dù chỉ một lần trong đời thì thích thú biết chừng nào . /.


========================= 

CHUYỆN KHOAI ĐỔI CHÓ Ở MỘT THÔN NGHÈO 



   Cô Hiền dạy học ở thôn Tôn khá lâu. Ba cô mất sớm  để lại cho cô, người con gái đầu, một mẹ già và đứa em trai đang học cấp hai. Cảnh nhà chật vật do đồng lương cô giáo chỉ vài chục một tháng có gắng chi cũng nữa tháng là hết. Dù tiêu chuẩn hàng tháng của cô có thêm mười ba ký gạo cùng thêm một ít nhu yếu phẩm như dầu hỏa và thịt chẳng đắp đổi vào đâu so với những nhà có đông lao động khác trong thôn.


  Hoàn cảnh neo đơn, chiêu yếu này làm cô chẳng muốn lấy chồng do cô thuơng mẹ quý em. Thật ra,  cô Hiển có người chị đầu nhưng đi lấy chồng sớm. Vợ chồng người chị mất tích vào mấy ngày Bình Tuy chạy loạn tháng Tư 1975 đến nay.  Từ cái chiều ngày 24 tháng Tư năm đó, cả nhà người chị theo ghe cặp theo biển để vô Vũng Tàu. Hôm đó sóng to gió lớn, vài thuyền thoát nạn vào được Vũng Tàu nhưng có vài chiếc bị sóng đánh lật úp. Kể từ đó tin tức người chị đầu xem như ‘bặt vô âm tín’ chẳng biết sống chết ra sao? 


    Do nghèo, cô Hiền  xem như là người chị đầu,  phải đảm đang vai trò người mẹ để nuôi  đứa em trai, ăn học đến nơi đến chốn. Cô hiểu ý mẹ và do thương mẹ chỉ còn đứa trai út này là niềm hi vọng của mẹ nên cô càng lúc càng đi đi, về về với chiếc bóng đơn côi, cam phận giữa một vùng quê cát trắng.


   Cái nghèo vùng kinh tế mới sau 1975 phủ chụp lên nhà cô Hiển thê thảm nhất. Nguyên do là thiếu bàn tay đàn ông, rẫy bái, nương rẫy thêm lương thực mới nuôi đủ trong nhà. Người ta có thiếu là thiếu gạo lúa, nhưng khoai sắn thì ê hề, không phải như cái cảnh cùng khổ dưới mái tranh nghèo của cô. Ngoài cái bàn thờ, cái bàn giữa xiêu vẹo, chẳng thấy cái chi thuộc dạng lương thực?  Nhà hàng xóm, mùa vô, khoai sắn cắt khô còn đổ đống giữa nhà chờ khô cất vào chồ. Nhà cô Hiền, chỉ vài mớ khoai tươi do cô tranh thủ với em, trồng trước hiên nhà, ăn xong là hết. Chỉ mong tháng khác, cô lại lĩnh lương vài chục đồng bạc bắc, mười ba ký gạo ăn hấp với khoai tươi, nhà ba người đắp đổi qua ngày.


    Vào thời này, dân trong thôn khó ai quên một  thiếu thốn rất chung cho mọi nhà: Thiếu đây là thiếu tiền, thiếu vải, thiếu dầu...  Ngoài ra  người ta thiếu thêm thứ lương thực cao cấp nhất là gạo và thịt.  Nói chuyện thịt, người ta còn dùng một từ 'khá đẹp' là "CHẤT ĐẠM "!

 

CON CHÓ NHÀ CÔ HIỀN





   Nhà cô Hiền. sống lọt giữa vùng dân quê lao động. Chiêu chang như cô chỉ nghề đi dạy nhưng lại là lao động chính trong nhà.  Sức đứa em trai chỉ trồng được đôi ba vồng khoai. Thế thì làm sao nhà cô không "thiếu lương thực " hay nói trắng ra khỏi thiếu đói được?

   Con chó nhà cô là 'điểm ngắm' của Tôn. Con chó kia  thuộc loại to con.  Mỗi lần nhìn hai bắp đùi sau 'núc ních' khi nó chạy qua nhà vợ Tôn, gã ước tính, nó mà thịt ra cũng được trên mười ký!  Lạ thật, thời này không ai kiêng dè hay ái ngại về thịt chó. Nhiều người ăn được, đàn ông, đàn bà , con nít, người lớn không ai còn sợ còn chê bai chuyện thịt chó như mấy năm trước. Chuyện thèm thịt, "văn vẻ" hơn một ít đó là "NHU CẦU ĐẠM " đã xóa đi bao thành kiến về chuyện ăn thịt chó. 

  Ngang đây là phần mở đầu cho Tôn nhớ lại chuyện một ngày cuối tuần, gã cùng thằng Quảng, người bạn chí cốt tới nhà cô Hiền, bàn chuyện "đổi chó".

   Vâng, chuyện đổi chác này rất đúng nghĩa  trong thời buổi giữa chốn nông thôn, khi những tờ giấy bạc là vấn đề xa xỉ. Người dân trong thôn, thường ‘vàn công, đổi công’ , giúp nhau thu hoạch những vụ mùa, là một hình ảnh rõ ràng. Đó là chuyện công lao động. Chuyện mua chác bằng tiền thường thay thế bằng đổi chác. Người cần củi, gỗ thì lấy khoai bắp mà đổi...

   Hôm đó Tôn đề nghị sẽ đổi cho cô hai gánh nặng, khoai lang, khoảng bốn thúng để lấy con chó nói trên. Cô Hiền rất cần hai gánh khoai kia. Sức cô khó  "tranh thủ" - vừa dạy vừa trồng cho ra bốn thúng khoai chỉa vỏ đỏ, xanh lòng. Xem chừng cô từ từ xiêu lòng, bắt đầu ưa thuận...

    Quảng đi theo Tôn. Hắn  từng hứa trước là tình nguyện làm "hỏa đầu quân", nấu con chó, nếu đổi chác thành công. Quảng còn hứa tất cả sả, riềng, nói chung là chuyện “đồ màu” chi ...hắn sẽ cung cấp  đầy đủ.  Nhà Quảng không thiếu những thứ này! Mạ hắn bán gánh hàng gia vị ngoài chợ nên hắn hứa là được.  Anh ta còn giúp Tôn làm “quân sư”,  nói chuyện với cô Hiền. Tính khí thằng Quảng  vui vẻ. Khi hắn cười híp cả hai con mắt.

    Tôn khó quên khuôn mặt đứa bạn thân. Mỗi lúc hắn cười hay nói chuyện hăng say với ai thì đỏ gay như vừa uống vô mấy chén rượu mỳ.  Nói gì thì nói,  trước sau gì Tôn đều nhờ 'miệng mồm' của Quảng. Hắn sẽ nói sao cho cô Hiền chấp nhận đổi bốn thúng khoai và chẳng kỳ kèo bắt thêm thúng nào nửa.

  Chuyện bàn bạc, đổi chác đang trơn tru nửa chừng, bất ngờ từ sau cái phên lá, đứa em trai của Cô nhào ra, lăn đùng giữa nền nhà khóc la thảm thiết. Tôn thấy  rõ cái sơ mi trắng của đứa em trai lấm lem đất. Đứa em trai gào khóc càng lúc càng to, hai tay nó chơi với, quờ quạng giữa khoảng không:

      - Ôi chị ôi, đừng đổi chó- đừng đổi- con chó chị ơi! Em thương con chó lắm chị ôi!

   Thật thế, đứa em trai rất thuơng con chó. Hàng ngày, cứ đi học về nó đều xoa vuốt. Con chó cũng mến cậu nhỏ. Thấy cậu chủ đi về là nó ra ngoài xa đón em cô  Hiền vô, đuôi nó vẩy vẩy. Chẳng lạ, khi cô giáo vắng nhà thì đứa em trai này là bạn với con chó kia với ai nữa? Mẹ cô Hiền tuổi già, lại năng đau. Đứa em trai này là con út không có em kế.  Chị cả nó thì đã mất tích trên biển từ lâu.

  Đang lúc cao hứng đổi chác, lâm hoàn cảnh này, khiến Tôn và Quảng hụt hẩng? Tự nhiên bầu không khí trở nên trơ trẻn lạ thường!  Một cái gì sượng sùng ập tới quá nhanh, không ai ngờ. Ai nấy đều nín bặt không nói thêm một lời.

    Đôi mắt cô Hiền như đẫm cả nước mắt. Cô thuơng đứa em trai nhất. Cô vội chạy lại ôm đứa em trai:

       - Thôi, thôi chị không đổi mô, chị không đổi mô!

   Tôn và Quảng chỉ biết lí nhí nói chi vài tiếng không rõ, rồi xô ghế ra về.


MIẾNG THỊT  CHÓ,  KHÓ  BỀ BỎ QUA


   Tưởng vậy là xong, không còn chuyện đổi chác gì nữa. Nhưng  chỉ một ngày sau, hình ảnh nồi thịt hông thơm phức, miếng nhồi chó bùi- béo làm Tôn và Quảng lại bàn với nhau. Đôi bạn này không thể bỏ qua chuyện đổi con chó kia được? Hai ngày sau lúc cô Hiền nghỉ dạy, hai đứa tiếp tục tới nhà cô. Lần này Tôn và Quảng cẩn thận hơn. Hai người chờ lúc đứa em trai cô Hiền vừa đi học mới qua. Kế hoạch đổi chác thật chớp nhoáng!




 Hai gánh khoai bốn thúng đầy vun. 

 Tôn và Quảng  gánh qua ngay khi cô vừa gật đầu đồng ý. Một đống khoai tươi vỏ đỏ, nhờ thu hoạch đủ ngày nên củ nào củ nấy láng bóng, căng tròn, trông sướng con mắt!

   Cô Hiền vào ngày đó đúng lúc đang cần khoai. Mười ba ký gạo tiêu chuẩn hàng tháng của cô đã hết hôm qua. Cái khạp nhỏ đựng gạo bên góc bếp trống trơn, không còn một hột. Hai cái thúng méo, rách, đựng khoai tươi bên góc nhà cô lúc đó chỉ còn vài ba củ  khoai nho nhỏ nhưng lại bốc mùi sâu? Kết quả thật mau chóng chỉ trong một giờ là xong ngay.

   Quảng vội dắt con chó ra khỏi nhà cô giáo như bị ma rượt? Tôn gánh hai đôi triêng gióng không, lật đật chạy theo thằng bạn. 

Hú vía! Kế hoạch thành công thật trơn tru.

   Con chó như ‘linh cảm’ trước số phận, trì cả bốn chân không chịu đi. Quảng phải ra sức kéo con chó, mắt hắn vừa ngó về phía trường như sợ đứa em trai cô Hiền về bất chợt thì nguy?  Con chó xấu số kêu “ăng ẳng”! đoạn đường đất pha cát trong thôn bốc lên những đám bụi mờ...


***




  Chỉ nội trong chiều đó, trời chưa tối hẳn, Quảng  đem qua nhà ba vợ Tôn một nồi đầy nhóc thịt hông thơm nức mũi. Lớp màng đỏ nổi lềnh bềnh trên nồi thịt vừa được Quảng ‘trịnh trọng’ đặt bên rỗ bún do ông gia Tôn ưu tiên đem thúng lúa ra đổi với nhà làm bún. Chỗ quen biết, ông gia của Tôn chỉ cần đem lúa qua đổi là có bún tươi ngay thôi. Nhà làm bún khi đi xay lúa ra gạo và xay bột làm bún dù sao cũng lời chút đỉnh và dư ra phần cám nên chẳng ai thiệt thòi chi. Một buổi tiệc thịnh soạn, trông hấp dẫn làm sao?

  Cả nhà vợ Tôn ai nấy đều phục tài người bạn của Tôn làm thịt chó "hết ý". Hết ý tức là không còn gì để chê nữa? Từ nồi hông cho đến mấy miếng dồi không khác chi tay Ông Oai trên dốc Tân Sơn làm đâu?  Chuyện ông Oai là tay thiện nghệ về thịt chó từ thời trước còn ở Quảng Trị là chuyện ông gia Tôn kể lại. Ông Oai làm thịt chó ngon đến độ có mấy ông cố vấn Mỹ tùng sự tại Tòa Hành Chánh vào thời đó, tuy " yêu chó , quý chó"  mà phải "chết mê chết mệt"? Những ông Mỹ cố vấn đó từng đem mấy két bia Budweiser “Bông Trắng” lon nhôm, gạ gẩm ông Oai làm thịt chó cho ăn…

   Đó là một thời Quảng Trị, trở lại bấy giờ là hình ảnh Tôn cùng bạn và cả nhà bên vợ đang liên hoan một nồi thịt chó thơm phức. Con chó vửa đổi được đã bù lại cho mọi người bao ngày " thiếu đạm" nơi một vùng quê - dư khoai thừa sắn- nhưng chẳng bán được bao nhiêu?

  Mấy đứa em vợ Tôn tuy nhỏ, nhưng là những tay lao động chính, đều có mặt trong buổi liên hoan. Cả nhà ông gia Tôn ai cũng suýt xoa khen tài nấu thịt chó của Quảng. Ông gia Tôn vừa ăn vừa gật gù khen ngon. Ông không quên nhắc Tôn:

     -Con nhớ đem bốn cái cẳng chó lên hầm với đậu xanh cho vợ con ăn đặng nhiều sữa cho cháu bú nghe?

   Trời sập tối. Tôn rời nhà ông gia, vội đem bốn cái cẳng chó còn lại lên nhà để hầm đậu xanh cho vợ ăn nhiều sữa để cho đứa con gái út mới sinh bú. Thằng Quảng thì khật khù do uống mấy ly rượu mỳ, hắn không quên đem cái nồi không ra về...


   Tiếng kẻng Đội Năm cuối  xóm Chợ Cam Bình, đánh  từng hồi. Tiếng kẻng giục dân đi họp... Trời dần về khuya, nếu ai còn thức đều nghe văng vẳng có tiếng khóc ai đó theo làn gió biển đưa vào?  Tiếng khóc con trai nghe thật tội do nó cứ rưng rức từng hồi? Hình như đó là tiếng khóc của đứa em cô Hiền  ./.

 

Đinh Hoa Lư 17/4/2021


=============================== 





                                
                                    Cổng Vào Hồ Nước Nóng Bình Châu 


    Về lại Mỹ tôi lại nhớ ngày đi thăm hồ Nước Nóng Bình Châu vào cuối năm, đón tết Đinh Dậu 2017.



 Tôi có cơ hội được biết tới cái tên lạ lùng-  "kơ- nia", nghe lạ tai làm sao? Cây Kơ Nia đây, giờ là cây quý hay đẹp làm cảnh cho khách tham quan. Thời làm rẫy hay tiều phu đốn hạ cây rừng, chúng tôi gọi chúng chỉ là cái tên bình dân, đơn giản đó là cây cầy. Thời gian đó, đồi bàn tay và cái búa của tôi 'ghét cay ghét đắng'  cây cầy do gỗ nó quá cứng; bong tay mẻ búa mới chặt hạ được nó. Tuy thế, người mua than thì lại ưa do than cầy chắc, cháy đượm.


Non ba mươi năm trước, mỗi lần người viết đạp chiếc xe đạp thồ nặng nhọc, ì ạch đi bán kẹo thèo lèo. Đường lên Bà Tô -Xuân Sơn -Bình Giã chi đều phải đạp ngang vùng này. Thời đó, vùng đất này chỉ một đám rừng tràm mọc trên nền cát trắng hoang vu, ít người qua lại và nhất là không canh tác được. Cảnh vật lúc đó quả thật hoang vắng. Mỗi lần  tôi đạp xe ngang qua, tôi có cảm giác vừa sợ vừa lo cho "cái túi tiền" sau mỗi lần đi bán hàng về.  Vốn liếng người bỏ rừng tập đi bán rong, chẳng bao nhiêu tờ bạc "bác Hồ" nhưng là quả thật nó là cả một 'gia tài' đối với nhà tôi.


Một thời gian sau, có tin đâu 'phát hiện' ra chuyện Suối Nước Nóng Bình Châu.
Tôi nghe vào lúc này có tin Tiệp Khắc qua đầu tư khai phá nguồn nước nóng để thu hút du lịch. Thời mới nhá nhem chuyện "mở cửa' của ông Linh chưa phải là Ông Kiệt. Dân mình sắn khoai chưa no bụng, thành phố chưa dư thừa hủ tiếu bánh mỳ làm sao phát triển du lịch?


Lại thêm một điều (tôi nhớ mang máng) rằng thời này khu  suối nóng này thuộc địa phận Xã Tân Thắng, Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải, không dính dáng gì vào địa phận Bình Châu cả? Bình Châu chỉ nghe tin sẽ được mở Cảng và Khu vực du lịch biển thôi.

Ai cũng quên chuyện này, và chẳng nghe bàn tán.


Mọi sự lặng đi một thời gian dài...



May thay mọi sự thay đổi, thế gian ai lường?
Cho đến non ba muơi năm sau vợ chồng tôi mới có dịp thăm Suối Nước Nóng Bình Châu, một nơi 
gần 30 năm trước tôi từng ưóc mong đi xem một lần nhưng mãi lo gò lưng đạp chiếc xe đạp thồ rong ruổi trên chặng đường dài mang cái tên Tỉnh Lộ 23. 



giếng nóng này 82 độ C có thể chín trứng gà

Nhắc đến Bình Châu một làng cá xưa kia đìu hịu vắng vẻ. Một thời 'quản lý thị trường' gắt gao nhất. Người buôn từ Hàm Tân, cụ thể hơn từ Tân Thiện Cam bình phải thuê người gánh, trong đó có tôi. Cả đoàn người lầm lũi gánh cá khô trong đêm tối đi men theo mấy chục cây số bờ biển để tới Làng Bình Châu. Nơi này có xe đò an toàn chở cá khô vào đến Sài Gòn. Những bao cá khô, loại cá cơm dính đầy cát nhưng phải "buôn lậu' phải tránh né để khỏi bị "quản lý thị trường' tại Láng Gòn (Hàm Tân) tịch thu sạch?

 Một thời dân mình rên xiết dưới cái từ ngữ 'QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG" hay :"ngăn sông cấm chợ" ..

Nhớ sao những triền cát cheo leo, phía dưới là sóng biển, những cái lạch nước từ Tân Sơn hay xã Tân Thắng chảy ra biển rất nguy hiểm. Sẽ có những hố ngầm nơi con lạch này chảy ra biển, chúng tôi có thể bị 'hỏng chân' có thể chết? Tôi phải gánh lội qua, phải rướn người cao lên cho hai bao cá khô khoảng 70 ký khỏi ướt vì nưóc biển, sẽ hư cá và sẽ nặng thêm cho tôi. (vào năm 2002 em vợ tôi Trần thiên Danh đi mò con chem chép đã bị sẫy chân chết đuối do những con rạch ngầm này).

 Hai bàn chân không dép, chúng tôi vượt qua vài cây số bờ biển nữa để đến làng Bình Châu. Bình Châu tạm coi là phố biển, có bến xe có nhà cửa, bến cá.  Nơi này tôi sẽ nhận được hơn một trăm đồng tiền công.  Tôi Nhớ sao khi lòng phơi phới do giá trị của một trăm đồng tiền công gấp mấy lần đi làm rẫy- ruộng.

Đường về thênh thang thoải mái chỉ còn triêng gióng không. 

Men theo bờ biển về lại Hàm Tân, sóng biển rạt rào, ngoài kia là một đại dương của tự do và cả một thế giới của ước mong háo hức cho bao người. Xác con tàu cũ bị chìm hay mắc cạn có thể từ 1975 còn nhô lên mặt biển. Tất cả đều hoà nhập trong một vùng biển trời hoang vu, hay đúng ra là cả một vùng đất trời xơ xác, cả một kỷ niệm khó quên cho đến lúc này.

Và lúc này là thời gian của đất  hẹp người đông. Tất cả tiềm năng của thiên nhiên đều bị 'nạo vét' cạn sạch. Từ đất đai, cây cỏ, biển , sông, hồ , rạch...tất cả đều bị lật tung theo khói bụi hơi người, động cơ cùng những gì bát nháo, lộn xộn nhất? 

Không còn nơi nào tĩnh lặng...thiên hạ thi đua nhau, hết tốc lực đi ra đường, ra biển kiếm sống. 

Sóng biển, rác rưới, người xe, những vùng đất bị quản lý, khoanh vùng, những hotel xây vội, những nhà nghỉ thi đua nhau mọc lên. Những mái nhà  mới xây thêm sau khi bạn được đất khá bộn tiền và mai mốt không biết sẽ về đâu?

Tất cả đều đổi thay sau mấy thập niên. 
Nếu tôi đoán không lầm, không riêng gì vùng đất kỷ niệm này mà mọi nơi trên quê nhà đều thay đổi nhưng một sự thay đổi có thể làm nhiều người lo ngại cùng cau mày do tất cả đều bị RỐI TUNG tận gốc.

ký ức ĐHL 14/2/2017
















================================= 

NGÀY TẾT THẦY CÔ Ở CHỐN THÔN NGHÈO 


hình tác giả đứng, phía sau là mái trường tranh miêu tả trong bài viết


  NGÀY ĐÓ lâu lắm rồi trên một vùng quê nghèo, tạm gọi là vùng KINH TẾ, tôi khó lòng quên được hình ảnh các em bé vùng nương rẫy và mái trường tranh rách nát, tả tơi. Những em học trò hàng ngày vừa phụ giúp gia đình việc làm nông vừa có một hạnh phúc, sung sướng nhất đời là được TỚI TRƯỜNG "kiếm đôi ba chữ". Người viết vẫn luôn tin rằng được tới trường là một hạnh phúc lớn nhất của các em.


 Rẫy rừng, miếng cơm độn sắn, cái áo chẳng lành trong mười hai tháng của một năm dài, ngoại trừ năm ba ngày tết. Chúng mừng vui với lớp bạn quê cùng lớp. Chúng sung sướng để được ngồi cùng nhau dưới những dãy bàn xiêu vẹo để được thấy cô thầy, những lớp người khác với cha mẹ chúng.


                CÔ GIÁO LỚP 3 (vợ tác giả) đứng cùng lớp chụp tại NGÔI TRƯỜNG QUÊ XÃ SƠN MỸ. Ngôi trường này của CHƯƠNG TRÌNH QUỐC VỤ KHANH/ KHẨN HOANG LẬP ẤP CỦA DI DÂN QUẢNG TRỊ VÀO HÀM TÂN NĂM 1974, CÒN SÓT LẠI vào thời gian chụp hình này ĐÃ SỤP ĐỔ MỘT NỬA NHƯNG VẪN CÒN HƠN MỘT NỬA DÙNG để DẠY HỌC (hình 1984 của tác giả)

Những đôi chân trần, quần đùi và cái áo vá nhưng các em đó vẫn tự hào do các em là HỌC TRÒ. Các em vui sướng, hăng hái đọc bài theo thầy cô.  Những viên phấn cô thầy viết phải tiết kiệm từng chữ; những nét chữ các em nắn nót say mê. Những cuốn vở hay mấy tờ giấy vàng ố, hiếm hoi lại nâng niu quý báu...

Có ai sống những qua những ngày cơ khổ đó mới biết được cái HẠNH PHÚC của các em trong những buổi tới trường. Hầu hết các em đều là học trò nghèo. Các em còn là những tay lao động dù không phải là CHÍNH nhưng rất cần cho gia đình- nhà nào làm nương rẫy đều cần.

Cha mẹ cần các em, từ đi BỎ HỘT trong những trận mưa đầu mùa, cho đến bới cơm vào rừng, đi lượm than vụn giúp kinh tế trong nhà và còn đi giữ rẫy nhất là khi mùa màng thu hoạch. Tiếng trẻ con kêu phụ họa với người lớn kèm theo tiếng gỏ đủ thứ... từ nồi niêu song bể hay còi ...nhằm  để xua đuổi bầy keo bọn khỉ... đang phá bắp, lúa...

 Đêm về các em được ở nhà để người lớn vào chòi giữ rẫy thay các em. Người lớn ở lại ban đêm để canh heo phá sắn.


Rồi hàng năm NGÀY TẾT THẦY CÔ 20 tháng 11 LẠI ĐẾN.

Bên mái trường tranh rách nát, trống trãi, bàn ghế gãy đổ chơ vơ,  có những khuôn mặt thập thò. Các em học trò ngày đó cũng biết kiếm làm sao cho ra những thứ gì để tỏ chút lòng tri ân thầy cô của chúng. 

Có em có được xâu cá, chúng cặm đâu hôm qua. Có đứa xin mạ đâu được mấy lon đậu xanh hay đậu huyết gì đó ...nói sao hết những món quà nhà quê cho những ngày THẦY CÔ năm đó. 

Ôi thật thà và chất phác đến tội nghiệp trong lòng?!

VỢ tôi đi dạy, tức là cô giáo làng vào thuở đó. Mấy chục đồng lương và 13 ký gạo đó là đời sống của một người đi làm nghề dạy học. Một thời kinh tế bao cấp và chốn rẫy rừng tự cung tự cấp của một thời hoang sơ của một xã hội mới bắt đầu như khởi thủy của một THUỞ HỒNG HOANG ?


ĐẸP LÀM SAO, NHỮNG TẤM LÒNG TRẺ NHỎ 


Mái trường tranh, vách lá hở hang cùng những cái bàn xiêu vẹo. Phấn viết cho Cô Thầy giảng bài cho các em vẫn thiếu. Trước mặt cô thầy, các em ngồi yên chăm chỉ nhưng bụng các em đang trưa xép lẹp. Tan buổi học chúng còn vào rẫy ...những lần mót khoai, sắn và những mớ than vụn trong rừng và những đồng bạc góp nhặt thêm cho đời sống gia đình. 


 Lớp nhỏ thành thị hôm nay cũng tập 'về thăm  vùng quê' để thay đổi không khí hay tận tường thế nào là vùng "SINH THÁI MỚI". Phải chăng các em sinh ra ở thành phố hôm nay biết chia sẻ hay cảm thông được những nỗi khổ cực của học trò nghèo ngày đó? Trẻ em thành phố sẽ có cơ hội về quê sờ được trái bắp, củ khoai hay ngay cả con trâu cái cày... Nhưng khó lắm khi bơ sữa là thức ăn hàng ngày của các em, các thế hệ đổi mới sau này khó cảm nhận được sự thiếu thốn của nhiều lớp trẻ em ngày trước

*

Hôm nay nơi chốn thị thành hay quê hương đã thay đổi. NGày Thầy Cô Giáo là một ngày Hội Tưng Bừng nào hoa nào quà cáp đủ thứ vật phẩm đắt tiền. Những lớp thầy cô trong thế hệ sau này đang có những ngày hội vui vẻ bên bao thứ quà tặng quý giá từ nhiều tầng lớp học trò trong một xã hội đầy đủ vật chất ...

Tôi chạnh lòng nhớ về hình ảnh ngày trước mà thuơng cho những đôi mắt tinh anh và khao khát học hành của các em nhỏ một thời dưới mái trường làng ...ôi những đôi mắt sáng ngời, thông minh, nhưng lắm gian nan chịu đựng thương khó bao ngày. Thật buồn cho các em phải sinh ra nơi vùng thôn dã. Những đôi chân trần bé nhỏ, những buổi trưa sau buổi học, em vội vào rừng. Trên đôi vai nhỏ, em còn gánh vác một bổn phận- phải giúp mẹ cha giành lại miếng ăn từ thú rừng hoang dại. Những trái bắp trái dưa, nhành lúa rẫy... nhiều loại thú rừng đang chực chờ phá hoại. Tiếng la, tiếng gỏ của các em, một lần nữa, lồng lộng vang lên:

hình ảnh một chòi giữ rẫy trong rừng 

-Cóc, cóc,...xèng xèng, huầy huầy huầy!!!

bao âm thanh hỗn tạp vang dội một góc rừng...

Do đó là mạch sống, là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, của các em. Người và thú rừng đang giành giựt hay canh nhau giữa từng giấc ngủ...

Có những con cá, những lon bắp, mớ đậu đẫm mồ hôi các em. Tình cảm chân thành và chất phác, từng hun đúc từ một vùng quê nghèo khó trong ngày Tết Thầy Cô làm tôi xúc động và nhớ mãi trong đời ./.


ĐINH HOA LƯ  20/11/2020 


============================================ 

ĐẤT RUỘNG HIẾM HOI CỦA XỨ ĐỘNG ĐỀN 


    

Trong đêm thanh, trăng tàn canh, bao tiếng ca theo tiếng chày nhanh nhanh Dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà ...(Gạo Trắng Trăng Thanh -Hoàng Thi Thơ)  

*
       

 Đất ruộng Động Đền quả thật hiếm hoi cho ai chỉ biết một nghề là làm ruộng.  Một dải đất pha cát ven biển Hàm tân,  chỉ  có biết chăm chỉ làm nông, cần cù, chịu khó, khai hoang tìm kiếm, có thể nói từng tấc đất một mới sống được qua ngày.
 
Kỷ niệm ở đây tôi không thể nào quên được những năm sau 1980, thời gian tôi có mặt tại "XỨ ĐỘNG"- cái tên do một "tay sáo" có biệt danh là THÀNH TÍN để gọi Động Đền. Anh cũng người gốc phường Đệ Tứ, thị xã Quảng Trị năm xưa theo người Quảng trị đi theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP, từng sống gọi thay cho Động Đền.
ngày đầu tiên người QT di dân vào Động Đền 1973

   Ở tù cải tạo về, còn độc thân tính tôi siêng năng chịu khó.  Tôi không bao giờ bỏ qua bờ tranh, bụi lách hoang nào. Tính siêng năng đó đến từ lòng mong muốn kiếm thêm chút diện tích nào đó thế cho đám đất bạc màu trên cái rẫy có tên rất lạ là "CHỒM CHỒM".  Bản thân tôi những ngày đoàn viên về với cha mẹ, còn nhớ một cây cầy cổ thụ cao to, gỗ cứng ngắt, nên trơ trọi còn lại trên rẫy đó. Mọi người trong vùng ai cũng chê, nhưng tôi chẳng bỏ. Dù có phồng rộp hai bàn tay, tôi cũng chặt hạ nó cho kỳ được. Hạ cây gỗ cứng đó xong, chỉ nhờ đôi vai, tuy đường xa hai anh em tôi gánh hết về nhà.  Đến khi hỏi vợ xong, tôi đi phụ làm ruộng với cha vợ, cái tánh siêng năng cũng không giảm bớt mà lại còn tăng gấp bội.

   Động Đền hồi này có đến sáu thôn.  Người dân phải sống với đám ruộng pha cát bạc màu nhỏ hẹp.  Đất ruộng hẹp đến nổi đứng bên này nói vói qua bên kia vẫn rõ giọng. Hàng trăm gia đình cạnh tranh nhau từng tất ruộng, bờ be để sinh tồn. Lại  có lúc mích lòng nhau cũng do giành giưtt từng miếng nước đem vào 
từng miếng ruộng bé nhỏ của họ.

   Năm 1974 dân Quảng Trị mới vào khai phá vùng đất này, nó 
chỉ tốt cho vài năm đầu. Ai còn ở đó đều kể lại chuyện ngày mới di dân vào đó. Hình ảnh những vồng khoai tốt củ, bới lên to chưa từng thấy. Người ta còn kể lại chuyện nhiều bụi sắn, củ nhiều và to đến nổi hai ba người mới nhổ lên được. Đó là chuyện năm sáu năm trước khi tôi ở tù về. Nhưng chuyện sắn khoai, ai là người dân xứ Động cũng còn nhắc lại.  Thế nhưng đất hẹp người đông, túng cùng sinh kế có người phải từ giã quê hương gian nan chật vật đó mà ra đi biền biệt. Họ đã vào tận Rạch giá, Bạc liêu nơi ruộng đồng "cò bay thẳng cánh". Cũng có người lìa xa cái xứ mang hai chữ Động Đền ra đi nhưng lại chịu làm phu cao su tại những vùng đất đỏ nông trường tại Long Khánh, Long Thành hay Bà Tô, Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giả...

                                SAN LẤP HỐ BOM

                                         

       Tôi về với gia đình ba mẹ thì không đi đâu, chỉ biết bám ở lại vào những mét đất ruộng cằn cỗi đó. Tôi tự xem như  là "đồng cam cộng khổ" với những ai còn ở lại cho đến ngày lấy vợ lập gia đình. Làm sao quên được ngày tháng cần cù chịu khó ; ba vợ tôi,  mấy đứa em vợ, và cả tôi ngày lại ngày san cả hố bom từ lâu biến thành cái hồ ở giữa đám ruộng. Cái hố bom là miếng đất hoang, chẳng ai có gan san lấp,  thế mà cả nhà tôi dám làm.


 

Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa, thiếu phân, thiếu nước.    

Tính kiên trì cùng nhẫn nại là sức bật cho chúng tôi đủ ý chí  san lấp hố bom mà bà con thôn xóm chưa ai nghĩ đến. Nỗi đau khi cả nhà cùng lê lết cắt từng nhánh lúa nhẹ bấc, mất mùa , chỉ còn vài hạt,  vì đất chẳng còn gì cho cây lúa sinh sôi nảy nở.  Lúa cắt không đủ bù giống!  có nhà bỏ luôn không thèm cắt nữa ! Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa , thiếu phân, thiếu nước. Những nhánh lúa lép xẹp, hạt ngay đơ,  chỏng ngọn lên trời như " than thân trách phận". Chúng thấp hơn đầu gối,  buộc chúng tôi cùng hàng ngang vừa ngồi vừa cắt .  Những nhánh lúa nhẹ đến nỗi không gây được chút cảm giác nào trong lòng bàn tay !  Tôi nhớ hòai những buổi gặt lặng lẻ,- sự lặng lẻ- buồn bả,- chua cay.  Chúng tôi im lìm làm việc, những động tác chán nản khó tả,  dù không nói nhưng ai cũng mang tâm trạng giống nhau.

   Quê nghèo làm gì có trâu bò !  hoàn cảnh bấy giờ trâu bò là cả một gia tài không ai dám mơ. Không trâu bò làm ruộng,  mấy cha con chúng tôi chỉ nhờ vào cái cuốc bản thật to để cuốc mau hơn.  Mỗi lát cuốc,  tôi phải cắn răng, mím môi,  cố sức lật cho đươc tảng đất lớn lẫn bùn sình. Sức người và những cái bừa '
cải tiến' chúng tôi đã bừa lại ruộng trước khi cấy lúa.  Tôi và mấy đứa em vợ thay phiên nhau chòang những sợi dây thừng qua vai xong cùng nhau kéo những đường xẻ thẳng tắp bỏ đậu phụng mùa đất ẩm.  Những lúc này tôi mới nhớ lại bài hát "quê nghèo" của Phạm Duy thời chống Pháp rồi thấy hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi thấm thía làm sao !
 
 Trớ trêu thay! những hình ảnh được nhạc sĩ Phạm Duy từng vẽ lên trong bài hát đó lại vận vào số phận chúng tôi không sai chút nào . Tôi càng thấy tội nghiệp, nay thôn xóm đã đủ ăn, dư mặc thì hai đứa em vợ nay đã ra người thiên cổ. Nay tôi thì ra tận xứ người, hai đứa em ở lại đã nằm yên trên đồi hoang lộng gió , nhìn về biển khơi , nhìn lên núi Bể mà cảm thuơng cho những số phận lầm than!

          KHOAI CÁ BÙ CƠM 

 
 Tôi xin trở về chuyện xưa : chuyện của những  

vồng khoai sau mùa ruộng.  Rơm rạ còn lại chịu lót làm phân cho mùa khoai đất ẩm.  Hình như khoai sắn là những gì đã định phần cho số dân Động Đền còn ở lại như chúng tôi,  để thấy rằng lúa cơm là những gì quý giá nhất ! và dầu có 'bong tay mỏi gối' cũng cắn răng san cho bằng cái hố bom to nhất xóm mới nghe ! Trời cũng an ủi cho số phận người dân ở gần biển, nhiều khoai thiếu gạo,  nhờ những mớ cá 'tươi rói'- dễ kiếm , trong khi ruộng đồng thiếu thốn bạc màu. 

CHIỀU BUÔNG TRÊN BIỂN ĐỘNG ĐỀN HÀM TÂN [hình Đinh thị Hiệp]
                                                        Biển Cam Bình lúc bình minh. Ảnh: T.Tú
  


            S át bờ biển là những xóm nhà làm nghề biển. Họ ở  cạnh nhau,  nương vườn nhỏ hẹp. Mùa gió chướng,  những ngày không đi biển, họ là những nông dân cần cù. Lúc này họ chịu khó khai phá từng mẫu rừng tràm bên bờ đại dương, biến chúng thành nương khoai xanh ngắt. Khoai Động đền ông Trời bù trừ cũng có tiếng ngon,  vì trồng trên thứ đất pha cát,  xen lẫn độ mặn của biển.

       Mùa rảnh tôi ra biển phụ kéo lưới bờ với ngư dân . Hai toán người già có, trẻ có phụ nhau kéo lưới vào bờ . Thúng không ra xa nên chỉ giăng lưới rùng sát bờ kiếm cá nhỏ thôi . Tình làng nghĩa xóm người nông kẻ ngư ai cũng là lối xóm nhau cả. Mớ cá vụn kéo xong bà con chia nhau sòng phẳng không nề hà kẻ yếu người mạnh. Cứ buổi như thế tôi cũng kiếm được một bao cát cá cơm về cho mẹ tôi làm mắm.

        CÚNG CƠM MỚI

 
Muôn câu hò, hò hò khoan, đang mãi vang trong đêm dài, 
Gái trai làng chiều hôm nay đang mãi say theo tiếng chày 
đêm chơi vơi gạo cười tươi, như chuyền hơi ấm, ấm lòng người ,,,(HTT)


         Thế là nhà vợ tôi cùng tôi  đã thành công san cái hố bom. Hố bom đó dĩ nhiên không thể rộng thêm nhưng đất đai cả nhà tôi đổ vào càng lúc càng nhiều . Số phận và kiên trì đã thách đố nhau. Hình ảnh cái hố bom đó đã thực sự biến mất; miếng đất hoang đã hiện thành sào lúa đầu mùa được sức trĩu nhánh. Lúa vàng óng ánh no tròn đầy hạt hòa với niềm vui của ba vợ tôi cùng tôi -người rễ tương lai- cả hai đang đứng bên lề ruộng ngắm say sưa.

  Ngày CÚNG CƠM MỚI đến. Ông gia tôi có lệ hay cúng cơm mới sau khi hoàn tất một vụ lúa dù được hay mất mùa. Mùa cúng cơm mới cái năm mà chúng tôi thu hoạch những gánh lúa đầu tiên từ hố bom nhà tôi vừa lấp nó vui vẻ và háo hức thật. Mẹ gia tôi tất tả ra chợ từ sớm, bà cũng vui lây với niềm vui trúng mùa của chồng con. Mâm cơm mới vừa trưa là đã xong để ông gia tôi trước là khấn nguyện tạ ơn thổ thần đất đai sau đó cả nhà sẽ cùng nhau ăn mừng một mùa làm lụng cực nhọc đã qua.


    Làm sao chúng tôi không vui do từng giọt mồ hôi cùng bàn tay rát bỏng để kiếm ra hạt gạo. Trong niềm vui đơn sơ - bình dị đó, lòng tôi phát sinh niềm thông cảm cho nỗi cơ cực của người nông dân.  Tai tôi như thấm thía nghe văng vẳng đâu đây lời nhạc nồng nàn của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ một nhạc sĩ tài ba sinh ra, lớn lên từ tình cảm quê hương. Đúng quá đi thôi, phải là người nông dân chân lấm tay bùn mới cảm nhận những nhánh lúa vàng đã biến thân cho bao hạt "gạo cười tươi" trong ngày cúng cơm mới. Tôi mới nhận ra được giá trị của cái nghề làm ra hạt lúa cùng cảm thông sâu sắc nỗi nhọc nhằn, lo toan từ những nơi đất hẹp, người đông cùng lúa ruộng bạc màu. Cho đến khi chính vai tôi gánh xong những gánh lúa mùa về mới thấy lòng vui như mở hội.

Những hạt gạo trắng ngần mới thay xong lớp vỏ lúa; chúng vừa rời đồng ruộng chỉ mấy hôm thôi. Giờ đây chúng biến thân thành từng chén cơm thơm ngát cho buổi CÚNG CƠM MỚI. Ông nhạc tôi vui cười liên hoan chén tạc chén thù với người con rể. Còn tôi vừa thưởng thức một buổi cúng cơm mới bên nhà vợ, vừa ngắm lại cánh đồng nhỏ hẹp đang trơ gốc rạ bên hông nhà.



   ngày cưới vc người viết 1/1/1983 tại Động Đền (Thôn Cam Bình) Tân Thiện Hàm Tân (nay là Xã Tân Phước)


Trong NGÀY VUI CƠM MỚI , tôi sung sướng khi ngày cưới của vợ chồng tôi gần kề. Đồng cảm từ những hoàn cảnh giống nhau, tôi bước vào làm rể nhà vợ tôi không một điều kiện nào ngoài trừ hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng ngay thật. 

   Giữa cánh đồng là con đường đất đỏ duy nhất dẫn về thị trấn LA GI. Dưới đó là nơi phố thị nhưng không xa vùng này nhiều lắm. Có vài ba con buôn, phương tiện của họ là xe đạp, đang gò lưng cố đạp trong mùa gió ngược. Buôn bán đường xa, những chiếc áo phong sương đang phập phồng bay theo gió. Mùa gió chướng đến rồi. Mấy mảnh đất khô cằn chẳng còn sinh thêm lợi tức gì nữa? Ngoài biển người dân làm cá cũng chẳng hơn gì; sóng lớn bạc đầu thi nhau đập vào bờ. Mấy chiếc thuyền nhỏ thiếu cá đang nhấp nhô theo sóng- nhiều chiếc thúng nay úp phơi trên cát, ít ai ra khơi.

cánh đồng trong bút ký và ông nhạc của tác giả (1995) lúc tác giả sắp đi Mỹ


  Tôi uống thêm vài ba chung rượu vì muốn vui, muốn "tận huởng" cho trọn vẹn một ngày VUI CƠM MỚI  do biết hôm sau sẽ chuỗi thời gian tiếp nối của cơ khổ đang chờ...


****

Thế mà đã bốn mươi năm vùn vụt trôi nhanh kéo theo bao  nhiêu biến đổi cuộc đời. Hình ảnh nghèo nàn của thôn xóm ngày xưa đó nay thay đổi hoàn toàn. Người ta không còn bám theo bờ ruộng hẹp hòi đó nữa. Bao lớp trẻ ra đi tìm đất sống mới, nghề nghiệp và cuộc đời mới. Lớp người già lần lượt cùng nhau từ biệt kiếp nhân sinh tạm bợ để về cõi trời miên viễn. Ông gia tôi hôm nay đã ra đi, giã từ cháu con- vĩnh biệt quê hương thứ hai mà bao chục năm nay người mình quen gọi hai tiếng  ĐỘNG ĐỀN.

 Động Đền -Bình Tuy, từng gắn bó với bao mảnh đời lưu dân Quảng Trị, trong đó có hình ảnh nhạc phụ tôi hàng ngày cần cù cuốc đất trên đám ruộng pha cát bạc màu, ven biển. Trong bao kỷ niệm vơi đầy đó, tôi không quên hình ảnh cùng tiếng nói cười trong  NGÀY VUI CƠM MỚI, như lời nhạc của Hoàng Thi Thơ, chính đó vẫn mãi là "dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà" để mỗi khi sống về kỷ niệm xa xưa dù chan chứa nhiều nỗi nhọc nhằn nhưng lại thấm đượm tình quê ./.

No comments:

Post a Comment

CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ...

CHUYỆN CÁI RẪY KHỔ ĐAU VÀ NHỚ THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI EM VỢ ... Thôi đúng rồi! Ngọn lửa bốc lên từ đằng cái khe nhỏ nơi những thợ săn Tân Thắng...